Câu 1: So sánh hoạt động ủy thác mua bán hàng
hoá với hoạt động đại lý thương mại.
Câu 2: Nhận định đúng sai, giải thích?
a) Mọi hoạt động vận chuyển hàng hoá của
thương nhân cho khách hàng để hưởng thù lao đều gọi là hoạt động dịch vụ
Logictics
b) Trong mọi trường hợp, nếu ko có thoả thuận
chế tài phạt vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại thì ko được đòi phạt
khi có vi phạm hợp đồng đó.
c) Bên đại lý ko được tự mình quyết định giá
bán hàng hoá mà mình làm đại lý.
d) Chỉ có thương nhân có đăng ký kinh doanh
dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại mới được quyền tổ chức hội chợ, triển lãm
thương mai.
Câu 3: Công ty A gửi công văn đề nghị giao kết
hợp đồng với công ty B vào ngày 12/7/2008, theo đó công ty A đặt mua 100 tấn cà
phê với giá 30 triệu/ tấn và thanh toán sau khi công ty A nhận hàng. Công ty B
gửi công văn đề ngày 20/07/08 trả lời công ty A là công ty B đồng ý bán số hàng
nói trên cho công ty A, nhưng yêu cầu công ty A thanh toán thành 2 đợt:
- Đợt 1: Khi hợp đồng được xác lâp.
- Đợt 2: Tại thời điểm cty B giao hàng cho
người vận chuyển do cty A thuê.
Ngày 28/07/08 cty A trả lời chấp nhận yêu
cầu trên của cty B. Cùng ngày cty B nhận được trả lời chấp nhận của cty A bẳng
Fax. hỏi:
1. Hãy xác định thời điểm xác lập hợp đồng
mua bán hàng hoá giữa cty A và cty B? 2.
Ai phải chịu trách nhiệm khi hàng hoá của đợt 2 bị hư hỏng do người vận chuyển
hàng hoá gặp bão lớn mà họ ko thể chống đỡ được và đã thông báo cho cty A.
TÌNH
HUỐNG
Câu 1: Tình huống
Ngày 1/12/2007 công ty TNHH thương mại
Thiên Lộc ký hợp đồng mua của công ty TNHH sản xuất chế biến và kinh doanh thực
phẩm Nhân Hoà 150 tấn gạo, 5% tấm với giá 6.000.000đồng/ tấn. Hợp đồng có hiệu
lực kể từ thời điểm ký kết và công ty Nhân Hoà sẽ giao hàng tại kho của công ty
Thiên Lộc làm 3 đợt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký hợp động Công ty Thiên
Lộc sẽ thanh toán bằng tiền mặt, ngay sau khi nhận hàng của mỗi đợt.
Vào ngày 5/12/2007 công ty Nhân Hoà giao
đợt hàng đầu tiên 50 tấn gao. Sau khi nhận hàng công ty Thiên Lộc không chấp
nhận thanh toán cho công ty Nhân Hoà theo giá đã thoả thuận trong hợp đồng, mà
chỉ đồng ý thanh toán với giá 5.000.000đồng/tấn với lý do là gạo có độ tấm
nhiều hơn 5%. Công ty Nhân Hoà không đồng ý với quyết định trên và không nhận
thanh toán.
Ngày 7/12/2007 công ty tiếp tục giao 50
tấn gạo của đợt 2, mặc dù vẫn còn đang tranh chấp về thanh toán tiền hàng của
đợt 1. Tuy nhiên, công ty Thiên Lộc từ chối không nhận 50 tấn gạo của đợt 2 với
lý do công ty Nhân Hoà giao hàng không báo trước, nên công ty không có kho chứa
hạng Ngay đêm đó mưa rất tọ Do không lường trước được tình huống trên, nên công
ty Nhân Hoà không có phương tiện che chắn, hậu quả 50 tấn gạo bị ướt và hư hỏng
hoàn toàn.
Trước các sự kiện trên, công ty Nhân Hoà
cho rằng công ty Thiên Lộc đã cố ý lừa dối mình, nên không tiếp tục giao hàng
đợt 3.
Vào ngày 15/12/2007 công ty Nhân Hoà gửi
công văn cho công ty Thiên Lộc với các yêu cầu đối với công ty Thiên Lộc như
sau:
-
Công
ty Thiên Lộc phải thanh toán 50 tấn gạo của đợt 1 theo giá đã thoả thuận trong
hợp đồng.
-
Công
ty Thiên Lộc phải bồi thường thiệt hại đối với lô hàng 50 tấn của đợt 2 theo
giá trị hợp đồng đã ký kết, do lỗi không nhận hàng theo thoả thuận trong hợp
đồng, dẫn đến gạo bị mưa ướt và hư hỏng hoàn toàn.
Ngày 30/12/2007 công ty Thiên Lộc có công
văn trả lời như sau:
-
Bác bỏ
yêu cầu của công ty Nhân Hoà và giữ nguyên quan điểm của mình, chỉ chấp nhận
thanh toán 50 tấn gạo của đợt đầu với giá 5.000.000đồng /tấn.
-
Yêu
cầu công ty Nhân Hoà phải chịu phạt 8% giá trị hợp đồng và bồi thường thiệt hại
300.000.000 đồng vì vi phạm hợp đồng.
1/ Hãy cho nhận xét về quan hệ hợp đồng và
diễn biến thực hiện hợp đồng nêu trên?
2/ Bằng quy định của pháp luật thương mại
hãy cho biết yêu cầu của các bên đúng hay sai, đồng thời giải thích rõ vì
sao?
3/ Hãy đưa ra cách giải quyết cụ thể phù
hợp quy định pháp luật tình tiết quan hệ hợp đồng trên?
CÂU 2: Các nhận định sau đây đúng hay sai? Giải
thích tại sao?
a/ Mọi rủi ro đối với hàng hoá sẽ thuộc về
bên bán nếu bên mua chưa nhận được hàng hoá đó.
b/ Hợp đồng mua hàng hoá sẽ không có hiệu
lực, nếu các bên trong quan hệ mua bán đó không có chức năng kinh doanh đối với
hàng hoá là đối tượng của hợp đồng.
c/ Mua bán hàng hoá giữa các thương nhân
Việt Nam với nhau là mua bán hàng hoá trong nước.
d/ Hợp đồng trong hoạt động thương mại, có
hiệu lực từ thời điểm được giao kết giữa các bên.
e/ Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, điều
khoản về chất lượng là điều khoản bắt buộc trong hợp đồng.
f/ Mọi thiệt hại phát sinh trong hợp đồng
mua bán hàng hoá, sau thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá giữa bên
bán với bên mua, được chuyển giao cho bên mua.
g/ Tài sản được mua bán, chuyển nhượng trên thị trường là hàng hoá.
h/ Hợp đồng thương mại được xác lập trái
quy định pháp luật sẽ bị vô hiệu tại thời điểm xác lâp.
Công ty Bông
Vải A thuê công ty vận tải B vận chuyển 100.000m vải từ kho cảng Cát Lái
(tp.hcm) về Bình Dương. Theo thoả thuận: thời gian nhận hàng vào hồi 10h30 phút
ngày 24/12/2009, ngoài ra hai bên thoả thuận với nhau bên nào vi phạm sẽ phải
chịu hoàn toàn trách nhiệm. nhưng đến 16h30 ngày 24/12/2009 công ty B mới đến
kho cảng( không có lý do khách quan để làm công ty B đến muộn); tuy nhiên vào
14h kho vải bị cháy
80.000m vải. Công ty A khởi kiện công ty B
đòi bồi thường số vải cháy.
Yêu cầu:
1. Hợp đồng trên là hợp đồng thương mại hay
hợp đồng dân sự ?
2. Chủ thể của hợp đồng là những đối tượng
nào?
3. Công ty B có phải bồi thường cho công ty A
không?
4. Sự việc trên giải quyết như thế nào?
Bài này mình làm như sau:
1. Hợp đồng trên là hợp đồng thương mại (hợp
đồng cung ứng dịch vụ)
2. Chủ thể của hợp đồng trên gồm bên cung ứng
dịch vụ (cty vận tải B) và bên sử dụng dịch vụ(cty Bông Vải A)
3. Cty B phải bồi thường cho cty A . vì Theo
khoảng 1 Điều 61, công ty B đã vi phạm hợp đồng
4.Giải quyết theo khoảng 3 điều 292, Cty A
buộc bồi thường thiệt hại.
Để cho các bạn tiện theo dõi, kèm theo
từng nội dung của tình huống chúng tôi sẽ tiến hành giải quyết, phân tích và
đánh giá trực tiếp các vấn đề.
Tình huống: Nhận xét các thỏa thuận hợp đồng đại lý
Điều 1. Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá số 15/VK ngày 15/11/2007
giữa công ty TNHH A (bên A – bên giao đại lý) với DNTN B (bên B – bên đại lý),
theo đó có một số điều khoản đáng lưu ý sau: (nhận xét về các thoả thuận trong
hợp đồng đại lí ký kết giữa CTTNHH A và DNTN B).
1. Bên B làm đại lí không độc quyền cho
bên A, được nhân danh chính mình để giao kết các hợp đồng mua bán hàng hoá; bên
B chỉ bán các sản phẩm mà bên A cung cấp, không bán các sản phẩm cạnh tranh
hoặc bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản.
a) Theo thoả thuận này thì bên B không phải là đại lí độc quyền
của A. Điều này có nghĩa là trên phạm vi địa bàn kinh doanh của B, A hoàn toàn
có quyền ký kết các hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá với các đại lí khác. Hệ
quả của việc này là B rất có khả năng sẽ có các đối thủ cạnh tranh kinh doanh
các mặt hàng tương tự do bên A cung cấp và thị trường khách hàng của B sẽ bị
giảm đi một phần, khoản thù lao thu được sẽ bớt đi.
b) Điều đáng lưu ý ở đây là hai bên thoả
thuận bên B có quyền nhân danh mình để giao kết các hợp đồng mua bán hàng hoá
nhưng quyền này lại bị hạn chế về đối tượng giao kết. Hợp đồng quy định, bên B
chỉ bán các sản phẩm mà bên A cung cấp, không bán các sản phẩm cạnh tranh hoặc
bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản. Đây là một
thoả thuận gây bất lợi cho B. Thường các đại lí là nơi có các loại mặt hàng của
nhiều hãng khác nhau để cho người tiêu dùng có thể lựa chọn và cũng đáp ứng
được nhiều đối tượng khác nhau, nếu không thì đại lí đó cũng phải có các mặt
hàng mang tính đặc trưng mà các đại lí khác không có được để tạo nguồn thu.
Trong khi ở đây, B không phải là đại lí độc quyền lại bị hạn chế về các sản
phẩm. Thêm nữa, trong hợp đồng lại đưa ra một điểm là bên B không được bán các
sản phẩm mà bên A cho là cạnh tranh nếu không được bên A đồng ý bằng văn bản.
Đây là điều khoản mập mờ, không rõ ràng. Bởi, hiểu như thế nào là sản phẩm cạnh
tranh? Quan điểm của A về mặt hàng cạnh tranh là như thế nào? Ở đây, B dường
như mất đi tính tự quyết đối với hoạt động kinh doanh của mình. Với quy đinh
như vậy thì bên B để đảm bảo an toàn, không bị coi là vi phạm hợp đông thì
trước khi có ý định bán một sản phẩm của đối tác nào đó thì sẽ hỏi ý kiến của
bên A, nếu được bên A đồng ý bằng văn bản thì mới ký kết với các đối tác khác
để bán các sản phẩm đó.
Như vậy, với điều khoản trên B dường như
bị phụ thuộc khá nhiều vào A và luôn giữ thế bị động trong quan hệ này và cả
trong hoạt động kinh doanh của B.
2. Hàng hoá được giao tại kho
của bên B; quyền sở hữu hàng hoá được chuyển giao cho bên B kể từ thời điểm
giao hàng.
a) Điều khoản này về hình thức là rõ ràng
và có lợi hơn cho B. Cụ thể là hàng hoá được bên A vận chuyển đến tại kho của
bên B. Tuy nhiên vấn đề cần bàn ở đây là hợp đồng quy định quyền sở hữu hàng
hoá được chuyển giao cho bên B kể từ thời điểm giao hàng. Hợp đồng số 15/VK là
hợp đồng đại lí bán hàng, bản chất của hợp đồng này là bên đại lí bán hàng cho
bên giao đại lí để hưởng thù lao. Hơn nữa theo điều 170 Luật thương mại thì bên
giao đại lí là chủ sở hữu đối với hàng hoá chứ không phải là bên đại lí – đây
là quy đinh mang tính bắt buộc, nghĩa là các bên trong hợp đồng đại lí không
được thoả thuận khác đi. Quy định này là hoàn toàn hợp lí. Bởi, nếu như quyền
sở hữu hàng hoá chuyển giao hoàn toàn cho bên đại lí thì đây lại không còn là
hợp dồng đại lí nữa mà là hợp đồng mua bán hàng hoá. Như vậy, trong trường hợp
này, điều khoản về chuyển quyền sở hữu là bất hợp pháp, khi có tranh chấp và
được giải quyết tại cơ quan tài phán thì điều khoản này sẽ bị tuyên vô hiệu
hoặc hợp đồng sẽ bị vô hiệu toàn bộ.
Như vậy, điểm cần lưu ý đối với hợp đồng
đại lí là các bên phải xác định chính xác một điểm rằng quyền sở hữu hàng hoá
trước khi chuyển giao hàng hoá cho khách hàng thì luôn thuộc về bên giao đại lí.
Vì vậy khi thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng liên quan đến vấn đề này
thì các bên không được thoả thuận khác đi, nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu và
thiệt hại sẽ xảy ra đối với cả hai bên.
3. Bên B bán các sản phẩm theo giá mà bên
A ấn định.
Luật thương mại hoàn toàn cho phép bên
giao đại lí có quyền ấn định giá bán của bên đại lí và ở đây thì bên A cũng ấn
định giá bán cho bên b, theo đó bên B sẽ phải bán hàng theo giá mà bên A ấn
định. Như vậy, bên B sẽ được hưởng thù lao theo phần trăm giá trị hàng hoá bán
được đã được bên A định trước tỷ lệ phần trăm. Quy định này cho thấy bên B phụ
thuộc tương đối nhiều vào bên A và dường như là rất bất lợi. Bởi, nếu xét sự
tương quan với các điều khoản ở trên thì bên B đã phải chịu sự giới hạn về các
mặt hàng lại không được quyền tự quyết định giá bán. Đặt ra tình huống bên B
kinh doanh một mặt hàng chủ yếu như: bánh kẹo mà với các điều khoản này thì B
sẽ khó lòng cạnh tranh với các đại lí khác. Bởi, khi các đại lí có quyền ấn
định giá bán cho khách hàng thì họ có thể chủ động tăng giảm giá để vừa có thể
thu lợi cho mình lại vừa có thể cạnh tranh với các đại lí khác. Trong khi ở
đây, B hoàn toàn không có quyền năng này, do đó khả năng cạnh tranh của B sẽ bị
hạn chế đi.
4. Bên B sẽ thanh toán tiền hàng theo từng
đợt giao hàng sau 15 ngày kể từ ngày giao hàng.
Theo quy đinh tại điều 176 Luật thương mại
thì trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì tiền hàng sẽ được
thanh toán theo từng đợt sau khi bên đại lí hoàn thành việc bán một khối lượng
hàng hoá nhất định. Điều này có nghĩa là khi bên đại lí bán hết một khối lượng
hàng hoá nhất định thì bên đại lí sẽ thanh toán tiền hàng cho bên giao đại lí
và nhập lượng hàng mới nếu hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Quy đinh này là hợp lí vì
bản chất của đại lí bán là bán hộ và hưởng thù lao từ việc bán đó. Vì vậy chỉ
khi hàng hoá bán được một lượng đáng kể đảm bảo có khả năng hàng sẽ được bán
hết thì bên đại lí mới có thể giao tiền và hàng cho bên giao đại lí và hưởng
thù lao đại lí.
Tuy nhiên hợp đồng đã thoả thuận rõ thời
hạn thanh toán tiền hàng thì các bên sẽ thực hiện theo đúng thoả thuận. Mặc dù
vậy, nó cũng có một số điểm chưa rõ ràng, cụ thể: việc thanh toán sẽ được thực
hiện theo phương thức nào, trả trực tiếp hay trả qua tài khoản? Trả bằng tiền
Việt hay ngoại tệ chuyển đổi? Trả một lần hay nhiều lần? Nếu không thoả thuận
rõ ràng thì khi thực hiện sẽ rất dễ phát sinh tranh chấp.
5. Hợp đồng có thời hạn 2 năm kể từ ngày
ký.
Pháp luật cho phép các bên được thoả thuận
về thời hạn hợp đồng và không hạn chế quyền này. Vì vậy hai bên hoàn toàn có
thể thoả thuận về thời hạn chấm dứt hợp đồng. Ở đây các bên đã thoả thuận thời
hạn chấm dứt là hai năm kể từ ngày ký. Thoả thuận này khá rõ ràng. Tuy nhiên
đặt ra vấn đề là khi hợp đồng chấm dứt thì việc thanh lí hợp đồng sẽ như thế
nào? Trường hợp hợp đồng chấm dứt thì hàng hoá sẽ xử lý ra sao, trả lại cho bên
giao đại lí hay bên đại lí vẫn bán tiếp? Trong trường hợp có các sự kiện khác
xảy ra thì hợp đồng có đương nhiên chấm dứt không?
Vần đề nữa là các đại lí thường hoạt động
lâu dài và uy tín thương hiệu của họ được xây dựng dựa trên hàng hoá mà họ bán
và quan hệ đại lí thường mang tính chất ổn định, lâu dài và các điều khoản về
thời hạn hợp đồng thường là không xác định hoặc dựa trên các yếu tố mang tính
khách quan hơn là quy định một thời gian nhất định. Điều này sẽ gây khó dễ cho
cả phía bên giao đại lí và bên đại lí.
b. Ngày 1/3/2008, A giao đợt hàng mới cho
B. Bên B mới bán được 1/3 lô hàng thì ngày 11/3/2008 do sự cố chập điện tại địa
điểm có kho hàng của B (sự cố này được xác định là sự kiện bất khả kháng) nên
kho chứa hàng của B bị cháy làm toàn bộ số hàng hoá trong kho bị hư hỏng. Vì
vậy, B không thanh toán được tiền hàng theo thoả thuận trong hợp đồng và cho
rằng mình chỉ là đại lí nên không có nghĩa vụ chịu rủi ro đối với số hàng đã bị
cháy.
DNTN B có phải thanh toán tiền hàng cho
CTTNHH A không? Ai sẽ là người chịu rủi ro đối với số hàng hoá bị cháy vào ngày
11/3/2008?
Nếu như xét tình huống này trong sự tương
quan giữa các điều khoản trong hợp đồng thì khi hàng hoá đã vận chuyển đến kho
của B thì quyền sơ hữu hàng hoá đã được chuyển giao cho B không phụ thuộc vào
việc bên B đã thanh toán hay chưa. Theo lý luận thì rủi ro sẽ thuộc về chủ sở
hữu hàng hoá trừ trường hợp rủi ro đó là do lỗi của bên kia. Như vậy, bên B sẽ
phải chịu rủi ro về hàng hoá đối với trường hợp này mặc dù chưa đến hạn thanh
toán tiền hàng của bên B.
Nếu xét trong các hợp đồng đại lí bình
thường mà hai bên không thoả thuận các điều khoản về trách nhiệm của hai bên
khi có rủi ro xảy ra thì nếu rủi ro xảy ra là do sự kiên bất khả kháng thì chủ
sở hữu hàng hoá phải chịu trách nhiệm, cụ thể là bên giao đại lí như phân tích
ở trên. Nhưng với hợp đồng này thì lại khác, đây là hợp đồng có điều khoản trái
pháp luật và điều khoản trái pháp luật này lại có liên quan đến trách nhiệm của
các bên khi có rủi ro xảy ra. Đó là điều khoản về quyền sở hữu hàng hoá.
Như vậy, có thể đưa ra cách giải quyết
trong tình huống này như sau:
Nếu bên B vẫn chấp nhận hợp đồng và thực
hiện không có ý kiến gì thì DNTN B sẽ vẫn phải thanh toán tiền hàng cho CTTNHH
A đồng thời phải chịu trách nhiệm về rủi ro đó.
Nếu hai bên có tranh chấp và đưa ra cơ
quan tài phán giải quyết thì hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu một phần hoặc toàn
bộ. Và dù hợp đồng bị tuyên vô hiệu theo hình thức nào thì các bên cũng phải
khắc phục hậu quả của việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu là quyền sở hữu sẽ phải
chuyển giao cho A chứ không được chuyển sang cho B theo như quy đinh tại điều
170 Luật thương mại. Và như vậy, DNTN B sẽ không phải thanh toán tiền hàng cho
CTTNHH A và không phải chịu trách nhiệm về rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng
mà không phải là lỗi của B.
2.2. Giả sử, anh An và ba người bạn của
anh An mua bánh trung thu ở của hàng đại lí do bên B bán và khi ăn bánh họ đã
bị ngộ độc phải nằm viện 3 ngày do chất lượng bánh trung thu không đảm bảo. B
đã ứng trước tiền viện phí, thuốc men…cho họ; sau đó, B yêu cầu A phải thanh
toán lại số tiền mà B đã ứng trước. A lập luận rằng mình cũng chỉ là đại lí cho
DNTN Long Phụng chuyên sản xuất các loại bánh kẹo nên DNTN Long Phụng phải là
người chịu trách nhiệm về chất lượng bánh trung thu và bồi thường thiệt hại cho
anh An và các bạn của anh. Theo anh, chị ai là người phải bồi thường thiệt hại
cho các khách hàng nói trên?
Chất lượng hàng hoá là một trong những
tiêu chí quan trọng để làm nên thương hiệu của nhà sản xuất và cả của đại lí,
việc một hàng hoá bị coi là có chất lượng không tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh của họ sau này. Để một hàng hoá, đặc biệt là các hàng hoá
là thực phẩm đến tay khách hàng đảm bảo chất lượng tốt không chỉ phụ thuộc vào
yếu tố sản xuất mà còn phụ thuộc cả vào yếu tố vận chuyển, bảo quản. Có thể khi
sản xuất ra, hàng hoá đó đảm bảo chất lượng tốt nhưng khi bảo quản lại không
hợp lý thì cũng làm cho chất lượng hàng hoá bị giảm sút và nhiều khi là có hại.
Do đó khi khách hàng phát hiện ra hàng hoá đó không đảm bảo chất lượng không
thể đổ lỗi hoàn toàn cho khâu sản xuất và khi đó thì trách nhiệm về chất lượng
của hàng hoá cũng sẽ không phải luôn do bên sản xuất chịu toàn bộ.
Theo quy định tại khoản 2 điều 173 Luật
thương mại, trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì bên giao đại
lí có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá của đại lí bán hàng. Tuy
nhiên, khoản 3 điều 175 cũng quy định, trong trường hợp hai bên không có thoả
thuận khác thì bên đại lý có nghĩa vụ bảo quản hàng hoá sau khi nhận và phải
liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá trong trường hợp có lỗi do
mình gây ra. Như vậy ở đây đặt ra vấn đề lỗi, cụ thể: trong trường hợp chất
lượng hàng hoá không đảm bảo một phần là do lỗi của bên đại lí như bảo quản
không đúng theo chỉ dẫn của bên đại lí là một trong những nguyên nhân đẫn đến
hàng hoá không đảm bảo chất lượng thì bên đại lí cũng phải liên đới chịu trách
nhiệm với bên giao đại lí. Còn trong trường hợp, chất lượng hàng hoá không đảm
bảo không phải do lỗi của bên đại lí thì bên giao đại lí sẽ phải chịu trách
nhiệm hoàn toàn.
Tuy nhiên, trong tình huống này, bên giao
đại lí lại chỉ là một đại lí cho một bên giao đại lí khác. Trong khi Luật chỉ
quy định mối quan hệ giữa một hợp đồng đại lí mà không quy định trường hợp có
hợp đồng đại lí tiếp nối. Như vậy thì trong tình huống này trách nhiệm giữa các
bên sẽ giải quyết như thế nào?
Trong tình huống này, mặc dù luật không có
quy đinh cụ thể nhưng chúng ta cũng có thể áp dụng một số quy đinh khác để giải
quyết. Theo điều 14 Luật thương mại quy định về nguyên tắc bảo vệ người tiêu
dùng thì thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về
chất lượng của hàng hoá mà mình kinh doanh. Như vậy, mặc dù DNTN Long Phụng
giao hàng cho bên A làm đại lí bán, sau đó bên A lại giao hàng cho bên B đê làm
đại lí bán cho mình và sự việc liên quan đến chất lượng hàng hoá không đảm bảo
lại xảy ra ở của hàng đại lí cảu bên B thì trong trường hợp này nếu chúng minh
được rằng chất lượng của hàng hoá không đảm bảo là do một phần hoặc toàn bộ lỗi
thuộc về khâu sản xuất thì DNTN Long Phụng cũng vẫn phải chịu trách nhiệm.
Đối chiếu trường hợp này với lập luận trên
đây thì tình huống này sẽ xảy ra các trường hợp tương ứng với các cách giải
quyết cụ thể sau:
Trường hợp cả bên A và bên B chứng minh
đều không có lỗi trong việc làm cho chất lượng hàng hoá không đảm bảo thì DNTN
Long Phụng sẽ phải chịu toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh An và
các bạn của anh.
Trong trường hợp bên B hoặc A hoặc cả B và
A có lỗi trong việc làm cho chất lượng hàng hoá không đảm bảo thì bên B hoặc
bên A hoặc cả A và B sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại với
DNTN Long Phụng và nếu bên B đã thực hiện nghĩa vụ cho anh An và các bạn của
anh thì DNTN Long Phụng và bên A (nếu phải bồi thường) sẽ phải bồi hoàn cho bên
B khoản tiền tương ứng với phần lỗi của mình.
2.3. Trong quá trình thực hiện hợp đồng
đại lí mua bán hàng hoá số 15/VK, bên A đã không tiếp tục giao hàng và gửi
thông báo bằng văn bản chấm dứt hợp đồng cho bên B. Hãy cho biết ý kiến của
mình về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên A?
Trong hợp
đồng 15/VK, hai bên đã thoả thuận hợp đồng có thời hạn 2 năm kể từ ngày ký.
Thông thường thì hai bên sẽ phải thực hiện hợp đồng cho đến hết thời hạn này.
Nhưng vì một lý do nào đó mà bên giao đại lý lại đơn phương chấm dứt hợp đồng
trước thời hạn thoả thuận. Câu hỏi đặt ra là bên giao đại lý có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không? Và chấm dứt như thế nào là hợp lý?
Hậu quả của việc chấm dứt là gì?
Điều 177 Luật thương mại có quy đinh về
thời hạn đại lí và việc đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lí trong trường hợp
hai bên không thoả thuận về thời hạn trong hợp đồng mà không quy đinh việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng trong hợp đồng có quy đinh thời hạn.
Tuy nhiên, hợp đồng đại lí cũng là một
loại hợp đồng dịch vụ mà theo quy định tại điều 525 Bộ Luật dân sự có quy định
về việc đơn phương chấm dưt hợp đồng dịch vụ, cụ thể “trong trường hợp việc
tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên thuê dịch vụ thì bên thuê
dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải thông báo
cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lí; bên thuê dịch vụ phải
trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ dã thực hiện và bồi thường
thiệt hại.” Theo đó, bên giao đại lí trong trường hợp nhận thấy việc tiếp tục
hợp đồng là không có lợi cho mình thì cũng có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên đại lí biết trước một thời gian
hợp lý.
Như vậy, trong trường hợp này hợp đồng đại
lí là hợp đồng có thời hạn nên không thể áp dụng điều 177 Luật thương mại mà
phải áp dụng theo điều 525 Bộ luật dân sự, cụ thể: nếu bên A không tiếp tục
giao hàng và chứng minh được rằng nếu như bên A tiếp tục giao hàng thì sẽ không
có lợi cho mình như: giá nguyên liệu tăng mà bán theo giá cũ thì sẽ bị lỗ hoặc
biểu thuế mới áp dụng cho mặt hàng này tăng mà nếu vẫn giao với giá như hợp
đồng sẽ không có lãi…trong trường hợp này việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của
A là có căn cứ. Tuy nhiên, điều 525 quy định trước khi chấm dứt hợp đông thì
bên A phải thông báo bằng văn bản cho bên B biết trong một thời gian hợp lý.
Trường hợp bên A không đưa ra được các lý do nêu trên thì việc chấm dứt hợp
đồng của A là bất hợp pháp và A phải chịu các chế tài như: buộc thực hiện đúng
hợp đồng, phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại cho B.
Tóm lại trong trường hợp này, việc A không
tiếp tục giao hàng và gửi thông báo bằng văn bản chấm dứt hợp đồng cho bên B là
không hợp lý. Bởi chưa cần xác định là vì lý do gì mà A chấm dứt hợp đồng nhưng
thủ tục tiên quyết là A phải thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hợp đồng
cho B trước một thời gian hợp lý. Tuy nhiên trong tình huống này A đã có hành
vi chấm dứt hợp đồng trước khi thông báo bằng văn bản cho B là không đúng pháp
luật. Theo nhóm tôi trong trường hợp này, nếu như A đã không tiếp tục giao hàng
cho B như đã thoả thuận và gửi văn bản chấm dứt hợp đồng mà việc này đã gây
thiệt hại cho B thì A phải bồi thường thiệt hại cho B và tiếp tục giao hàng như
thoả thuận. Sau đó, nếu vẫn còn ý định chấm dứt hợp đồng thì gửi bằng văn bản
khác cho B, nếu B đồng ý hoặc B không đồng ý nhưng lý do đưa ra là họp lý thì B
phải sắp xếp lại hoạt động kinh doanh và chấm dứt hợp đồng, trong trường hợp
này A sẽ phải bồi thường cho B một khoản tiền và có thể bị phạt vi phạm và
ngược lại B vẫn phải thanh toán cho A tiền hàng của đợt hàng mới nhận. Theo
điều 177 Luật thương mại thì khoản bồi thường sẽ bằng “một tháng thù lao đại lí
trung bình trong thời gian nhận đại lí cho mỗi năm mà bên đại lí làm đại lí cho
bên giao đại lí. Trong trường hợp thời gian đại lí dưới một năm thì khoản bồi
thường được tính làm một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận
đại lí”. Nếu B không đồng ý chấm dứt và lý do A đưa ra không hợp lý thì A vẫn
phải tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi hết thời hạn.