1. Phân tích các điều
kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Hợp đồng mua bán
hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ. Tuy nhiên không phải mọi thỏa thuận của các bên đều được pháp luật thừa
nhận mà chỉ có những thỏa thuận tuân theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực.
Luật thương mại (LTM) 2005 không có quy định cụ thể về điều kiện để hợp đồng
mua bán hàng hóa có hiệu lực, vì vậy khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa cần dựa trên những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy
định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015. Điều
117, BLDS 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi
có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự
hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch
dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Căn
cứ vào quy định của BLDS 2015 và các quy định có liên quan, có thể xác định một
hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất,
các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ thể thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn chủ thể tham gia hợp đồng mua bán
chủ yếu là các thương nhân. Khi tham gia hợp đồng mua bán nhằm mục đích lợi
nhuận các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối
với hàng hóa được mua bán. Trường hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có đăng kí
kinh doanh, thương nhân phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định
của pháp luật.
Thứ hai,
đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền. Đại diện
hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện
theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán, theo quy định
tại Điều 142 BLDS 2015, thì khi Giao
dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp
sau đây: Người được đại diện đã công nhận giao dịch; Người được đại diện biết
mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; Người được đại diện có lỗi dẫn đến
việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.
Thứ ba,
mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không bị cấm kinh doanh
theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào từng giai đoạn kinh tế, xuất phát từ
yêu cầu quản lí nhà nước mà những hàng hóa bị cấm kinh doanh được pháp luật quy
định một cách phù hợp. Vì vậy đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là
những hàng hóa được pháp luật cho phép trao đổi, mua bán.
Thứ tư,
hợp đồng mua bán được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng theo quy
định của pháp luật. Việc quy định các nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo
sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến những lợi
ích chính đáng của các bên đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán phải tuân
theo các nguyên tắc: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã
hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những
hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng… là lí do dẫn đến hợp
đồng mua bán không có hiệu lực.
Thứ năm,
hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật. Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định
hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy
định phải được lập thành văn bản thì cần phải tuân theo quy định đó. Trường hợp
các bên không tuân thủ hình thức hợp đồng khi pháp luật có quy định thì hợp
đồng vô hiệu khi kí kết.
Ngoài
ra, Luật Thương mại còn có quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân người nước ngoài như chủ thể bên Việt Nam phải
là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người nước ngoài,
hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật nước
bên mua và nước bên bán, …
2. Nhận xét về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo và bình luận
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
a. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo
Luật Trọng tài Thương mại (TTTM) 2010 không quy định cụ thể về các điều
kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, dựa vào quy định về các
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu có thể xác định được các điều kiện đảm
bảo cho một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Cụ thể, Điều 18 Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong
các trường hợp sau:
“1. Tranh chấp pháp sinh trong
các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật
này.
2. Người xác lập thỏa thuận trọng
tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Người xác lập thỏa thuận trọng
tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thỏa thuận trọng
tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu
tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm
điều cấm của pháp luật”.
Từ quy định trên, có thể thấy, để
xem xét thỏa thuận trọng tài trong tình huống có hiệu lực hay không cần dựa vào
các tiêu chí sau:
a) Về
đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Đối tượng của thỏa thuận
trọng tài phải là các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của trọng tài được quy định tại
Điều 2 Luật TTTM 2010, bao gồm:
“1.
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2.
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại.
3.
Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng
tài”.
Xét tình huống, Công ty cổ
phần A và Công ty cổ phần B là 2 thương nhân, mục đích của 2 bên khi tiến hành
mua bán hàng hóa (mua bán gạo) là mục đích sinh lợi. Vì vậy, hoạt động mua bán
gạo mà 2 bên thực hiện là hoạt động thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005. Từ
đó, có thể thấy, tranh chấp về hoạt động mua bán gạo của 2 bên là tranh chấp
phát sinh từ hoạt động thương mại – đối tượng của thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, đối tượng thỏa thuận trọng tài giữa Công ty cổ phần A và
Công ty cổ phần B là phù hợp với quy định của Luật TTTM 2010.
b) Về
thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài
Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền ký kết. Theo
như tình huống thì chủ thể của thỏa thuận trọng tài là Công ty cổ phần A và
Công ty Cổ phần B, người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài là giám đốc của
2 công ty. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp theo quy định tại Luật
Doanh nghiệp 2020, người có thẩm quyền ký kết thỏa
thuận trọng tài của loại hình doanh nghiệp này là đại diện theo pháp luật của
mỗi công ty hoặc người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để tham gia ký kết
thỏa thuận trọng tài. Tại khoản 2 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ
tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo
pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội
đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty
có hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công
ty”. Như vậy, giám đốc Công ty Cổ phần có thể là đại diện theo pháp luật
của công ty hoặc không, tùy vào các
trường hợp cụ thể. Chính vì vậy, tình huống trên sẽ
xảy ra 2 trường
hợp sau:
-
Trường hợp 1: Giám đốc Công ty A và
Giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được
2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp này thì
Giám đốc của 2 công ty thỏa mãn yêu cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài
được quy định tại Luật TTTM 2010.
-
Trường hợp 2: Giám đốc Công ty A và
Giám đốc ty B không phải là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng
không phải là người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng
tài. Với trường hợp này thì giám đốc của 2 công ty không đáp ứng điều kiện về
chủ thể của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010.
c) Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài
Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo quy
định tại BLDS 2015. “Người ký kết” ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm cả chủ thể của thỏa thuận trọng tài và
người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài. Xét tình huống, do người ký kết
thỏa thuận trọng tài là giám đốc của 2 công ty nên mặc định 2 người này phải có
năng lực hành vi theo quy định của BLDS 2015. Về 2 công ty A và B, sau khi
ký kết hợp đồng mua bán gạo với nhau, Công ty B đã không giao hàng cho Công ty
A, Công ty A yêu cầu Công ty B bồi thường thiệt hại nhưng Công ty B không đồng
ý và xảy ra tranh chấp. Điều này có nghĩa đây là 2 công ty tồn tại và đang hoạt
động trên thực tế nên nhóm cũng mặc định chúng có năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, chủ thể ký kết thỏa thuận trọng
tài ở tình huống thỏa mãn yêu cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài theo
quy định tại Luật TTTM 2010.
d)
Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010 quy định : “Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Khoản 2
Điều này quy định thỏa thuận trọng tài
phải được xác lập dưới dạng văn bản và quy định một số thỏa thuận cũng được coi
là xác lập dưới dạng văn bản.
Xét tình huống, thỏa thuận trọng tài giữa Công ty A và Công ty B được xác
lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo. Hợp đồng
mua bán gạo được lập thành văn bản và được 2 bên ký kết.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài của 2 công
ty đảm bảo yêu cầu về hình thức theo quy định tại Luật TTTM 2010.
e) Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng
tài
Các bên phải hoàn toàn tự
nguyện khi giao kết thỏa thuận trọng tài. Theo như quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật TTTM 2010 thì nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và phải có thêm điều kiện
là: có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu thì thỏa thuận trọng
tài mới bị vô hiệu. Xét tình huống, không hề có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các
bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng mua bán
gạo là kết qủa thỏa thuận của 2 bên, trong đó mỗi bên đều nhằm đạt được mục
đích lợi nhuận của mình. Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng
mua bán gạo, là thỏa thuận của các bên về phương thức giải quyết tranh chấp. Do
đó, thỏa thuận trọng tài trong tình huống được xây dựng trên cơ sở tự nguyện,
thống nhất ý chí của các bên.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài trong tình huống thỏa mãn yêu cầu về ý chí của các bên
khi xác lập thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật TTTM 2010.
f)
Về nội dung của thỏa thuận
trọng tài: thỏa thuận trọng tài phải không được vi phạm điều cấm của pháp luật.
Xét tình huống: Thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công
ty B có nội dung: “Mọi tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành”. Như vậy, nội dung của thỏa thuận trọng tài
này không hề vi phạm điều cấm của pháp luật nên thỏa mãn yêu cầu về nội dung của
thỏa thuận trọng tài theo quy định tại
Luật TTTM 2010.
Kết luận chung: Trong các điều kiện có
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010, thỏa thuận
trọng tài của Công ty A với Công ty B thỏa mãn yêu cầu về đối tượng, hình thức,
nội dung của thỏa thuận trọng tài, năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài, ý chí
của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên còn điều kiện về thẩm
quyền ký kết thỏa thuận trọng tài tình huống không nêu rõ nên đưa ra kết luận
sau:
-
Nếu giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại
diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký
kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.
-
Nếu giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải
là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi
công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng
tài giữa 2 công ty không có hiệu lực pháp luật.
b. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài
Như trên đã phân tích, từ quy định tại Điều
18 Luật TTTM 2010, có thể thấy, các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có
hiệu lực bao gồm: đối tượng của thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền ký kết thỏa
thuận trọng tài, năng lực chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài, hình thức của
thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài, nội
dung của thỏa thuận trọng tài
·
Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Đối tượng của thỏa thuận trọng tài được quy định tại
Điều 2 Luật TTTM 2010. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài ở mức
độ nhất định, không quá rộng cũng không quá hẹp. Quy định này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên khi tiến hành giao kết thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên,
so với các nước khác trên thế giới, thẩm quyền giải quyết của trọng tài Việt
Nam còn hẹp, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm quyền của trọng
tài rất rộng. Ví dụ Luật Trọng tài Trung Quốc quy định mọi tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng hoặc quyền sở hữu giữa các công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức
khác trên cơ sở bình đẳng đều có thể được giải quyết bằng thỏa thuận trọng tài
(Điều 2), đồng thời loại trừ các tranh chấp không được giải quyết bằng trọng
tài bao gồm các tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận nuôi con nuôi, giám hộ
và thừa kế, tranh chấp hành chính (Điều 3). Điều 1 Luật Trọng tài Braxin quy
định: “Những người có khả năng ký kết hợp
đồng có thể đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các
quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”.
·
Thẩm quyền ký kết thỏa thuận
trọng tài
Một trong những vấn đề ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài là thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài
chỉ có hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên khi người ký kết thỏa thuận trọng tài
có thẩm quyền ký kết. Khi thỏa thuận trọng tài được ký kết bởi người không có
thẩm quyền thì thỏa thuận đó không thể hiện được ý chí đích thực của các bên.
Do đó, thỏa thuận trọng tài sẽ không còn ý nghĩa. Khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài 2010 quy định thỏa thuận trọng tài
vô hiệu khi “người xác lập thỏa thuận
trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật”.
Tranh chấp giữa cá nhân với
nhau thì cá nhân đó chính là người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài.
Các cá nhân này có thể ủy quyền cho người khác ký kết thỏa thuận trọng tài.
Việc ủy quyền này phải tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về đại diện theo ủy quyền. Đối với tranh chấp phát
sinh giữa pháp nhân với pháp nhân thì người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận
trọng tài là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân. Luật Doanh nghiệp 2020 đã quy
định người đại diện theo pháp luật của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.
Như vậy, quy định về thẩm
quyền ký kết thỏa thuận trọng tài trong Luật TTTM 2010 không thay đổi so với
quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Quy định này là hợp lý,
phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, tạo ra sự thống nhất khi áp dụng.
·
Về năng lực ký kết thỏa thuận
trọng tài
Theo như quy định tại Luật
TTTM 2010 thì người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân
sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. “Người xác lập thỏa thuận”
ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là cả cá nhân và pháp nhân bởi có
những trường hợp một bên ký kết thỏa thuận trọng tài là doanh nghiệp không còn
tồn tại trên thực tế và cũng không có tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ, vì vậy
mà thỏa thuận trọng tài đã ký không còn tồn tại trện thực tế nữa.
Quy định này của Luật TTTM
cũng không có thay đổi so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
·
Về hình thức của thỏa thuận trọng
tài
Hình thức của thỏa thuận
trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật TTTM 2010. So với Pháp lệnh Trọng tài
thương mại 2005 thì Luật TTTM 2010 đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng
tài, tạo điều kiện tốt nhât cho các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài.
·
Về ý chí của các bên khi xác lập
thỏa thuận trọng tài
Khoản 1 Điều 3 Luật TTTM quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”.Như vậy, thỏa
thuận là yếu tố không thể thiếu đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Do đó, khoản 5
Điều 18 Luật TTTM đã quy định nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép trong quá trình xác lập thảo thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố
thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài đó bị vô hiệu. Quy định
này là hợp lý bởi nếu một trong các bên không có sự tự nguyện ý chí khi xác lập
thỏa thuận trọng tài nhưng lại không có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài
này vô hiệu tức là đã “ngầm” chấp thuận thỏa thuận trọng tài đã ký kết.
·
Về nội dung của thỏa thuận trọng
tài
Đây là điều kiện không được
quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Khoản 6 Điều 18 Luật TTTM 2010
quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật. Bổ
sung này là rất hợp lý bởi điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp
luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Một thỏa thuận
trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật thì chắc chắn phải bị vô hiệu.
Kết luận chung: Luật TTTM 2010 khi quy định về
điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã khắc phục được những điểm hạn
chế, thiếu sót của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, tạo điều kiện và cơ sở
pháp lý cho các bên khi xác lập thỏa thuận
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A
không? Vì sao?
Tháng 1/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua
1000 tấn gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn
giao hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A không
thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng.
Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại 500 triệu đồng
và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B không chấp thuận. Đáng lưu ý
là mặc dù đã có thỏa thuận rằng “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được
giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành.” Nhưng Công ty A quyết định khởi kiện ra Tòa án luôn mà không thông
qua trọng tài thương mại.
Điều
6 Luật TTTM 2010 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một
bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
Khi mà thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và
công ty B không bị vô hiệu và hoàn toàn có thể thực hiện được thì Tòa án phải từ chối thụ lý đơn khởi kiện
của Công ty A.
Như đã phân tích ở trên, sẽ có hai trường hợp xảy ra:
TH1: Nếu
giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp luật của mỗi
công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài
thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.
TH2: Nếu
giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện theo pháp luật của mỗi
công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài giữa 2 công ty không có hiệu lực
pháp luật.
Khoản 1, Điều 167 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định, tòa án phải “Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình”.
Như
ta đã thấy, đây là vụ án tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
hai doanh nghiệp, thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án quy định tại Điểm a,
khoản 1, Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự:
“ Điều 29: Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích
lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hóa; ”
Như
vậy, trong trường hợp này thỏa thuận trọng tài của hai bên là vô hiệu, vì vậy
theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010 và căn cứ theo Bộ luật
Tố tụng dân sự, Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của Công ty A.
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của
yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi thường
thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu?
Công ty B đã vi phạm
hợp đồng và gây tổn thất cho công ty A. Vì vậy, việc công ty A yêu cầu công ty
B bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hợp lý và hợp pháp, dựa vào các căn cứ
pháp lý sau đây:
·
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty A: Vấn đề
này được quy định trong Chương VII “Chế tài trong thương mại và giải quyết
tranh chấp trong thương mại” Luật Thương mại 2005 mà cụ thể là trong Điều 302.
“Điều 302. Bồi thường thiệt hại:
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường
những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Như trường hợp của
công ty A, vì công ty B đã vi phạm hợp đồng dẫn tới thiệt hại cho công ty A, đồng
thời, hành vi vi phạm của công ty B cũng thỏa mãn các căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 303 LTM 2005 là:
Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều
294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu
tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại.
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng: Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ . Để xác định một hành vi có phải là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hay không cần
căn cứ vào nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng. Việc không thực hiện hoặc chỉ
thực hiện một phần nghĩa vụ đó đều bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng.
+ Có thiệt hại thực tế xảy ra: Hành
vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là điều kiện đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ
phát sinh khi có thiệt hại thực tế xảy ra cho bên bị vi phạm.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại: Ở đây
tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại thực
tế.
Theo như dữ kiện đầu bài nêu, thì
rõ ràng hành vi của công ty B là không giao đúng và đủ số gạo như đã thỏa thuận
trong hợp đồng ban đầu giữa hai công ty là hành vi vi phạm hợp đồng. Và vì hành
vi của công ty B đã dẫn tới hậu quả là công ty A đã không có đủ số gạo để giao
cho đối tác và bị phạt vi phạm 200 triệu đồng. Ta có thể thấy hành vi không
giao đủ số gạo của công ty B là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc công ty A bị
đối tác phạt vi phạm.
·
Về việc phạt vi phạm
mà công ty A áp dụng đối với công ty B
Cơ sở pháp lý của yêu cầu này xuất
phát từ Điều 300 Luật Thương mại 2005:
“Điều 300. Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng
nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định
tại Điều 294 của Luật này.”
Như đã phân tích, trong trường hợp này, công ty B là bên vi phạm hợp đồng,
do đó công ty A có thể yêu cầu công ty B trả cho mình một khoản tiền
phạt vi phạm. Tuy nhiên, khác với yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm chỉ
đặt ra trong trường hợp trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận rõ là nếu bên nào
vi phạm sẽ bị phạt vi phạm. Tức là hợp đồng trên thực tế của công ty A và công
ty B phải có nội dung quy định về vấn đề phạt vi phạm này.
Khi xem xét vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm cùng một hợp
đồng thì ta cần chú ý đến quy định tại Điều
307 Luật Thương mại 2005:
“Điều 307. Quan hệ giữa
chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại
1. Trường hợp các bên
không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm
thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”
Quy định này để khẳng định thêm về vấn đề thỏa thuận giữa các bên về phạt
vi phạm trong hợp đồng. Tức là nếu công ty A muốn yêu cầu bồi thường thiệt hại
và phạt vi phạm của mình được Tòa án chấp nhận thì phải thỏa mãn quy định tại
Điều 307 Luật Thương mại 2005.
Về mức bồi thường thiệt
hại và mức phạt vi phạm mà công ty B phải chịu:
- Về mức bồi thường thiệt hại: Được quy định tại Khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại 2005:
“2. Giá trị bồi thường
thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm”.
Theo như đầu bài đã cho, công ty A bị bên đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng,
đây là tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty A (bên bị vi phạm) phải chịu do
công ty B (bên vi phạm) gây ra. Vậy nên công ty B phải bồi thường cho công ty A
số tiền này. Ngoài ra, công ty B phải bồi thường thêm một khoản tiền được coi
là “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Vấn đề xác định khoản lợi
trực tiếp ở đây là bao nhiêu thì sẽ tùy thuộc vào sự chứng minh của công ty A.
Chúng ta không thể ấn định một con số cụ thể bởi trên thực tế, Luật Thương mại
2005 và ngay cả trong BLDS 2015 cũng không hề có
quy định giới hạn mức bồi thường thiệt hại.
- Về mức phạt vi phạm: Được quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005.
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều
vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này”
Do trên thực tế, công ty B chưa hề giao cho công ty A số gạo như đã ghi
trong hợp đồng nên trong trường hợp này “phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” được hiểu là toàn bộ giá trị của hợp
đồng. Giá trị hợp đồng giữa hai công ty này trị giá là 10 tỷ VNĐ. Vậy 8% của 10
tỷ là 800 triệu đồng
Như vậy, tổng hợp cả hai khoản là bồi thường thiệt
hại và phạt vi phạm (nếu yêu cầu được Tòa án chấp nhận) thì số tiền công ty B
phải trả cho công ty A là 1 tỷ VNĐ cộng thêm số tiền là khoản lợi trực tiếp mà
công ty A chứng minh được là công ty mình đáng lẽ đã được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm của công ty B (nếu được Tòa án chấp nhận).