Các mẫu bài tập môn luật thương mại 2 (có đáp án)


Các mẫu bài tập môn luật thương mại 2 (có đáp án)


1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực         

Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên không phải mọi thỏa thuận của các bên đều được pháp luật thừa nhận mà chỉ có những thỏa thuận tuân theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực. Luật thương mại (LTM) 2005 không có quy định cụ thể về điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực, vì vậy khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa cần dựa trên những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015. Điều 117, BLDS 2015 quy định:

“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”

Căn cứ vào quy định của BLDS 2015 và các quy định có liên quan, có thể xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn chủ thể tham gia hợp đồng mua bán chủ yếu là các thương nhân. Khi tham gia hợp đồng mua bán nhằm mục đích lợi nhuận các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán. Trường hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có đăng kí kinh doanh, thương nhân phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm quyền. Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán, theo quy định tại Điều 142 BLDS 2015, thì khi Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau đây: Người được đại diện đã công nhận giao dịch; Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.

Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào từng giai đoạn kinh tế, xuất phát từ yêu cầu quản lí nhà nước mà những hàng hóa bị cấm kinh doanh được pháp luật quy định một cách phù hợp. Vì vậy đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là những hàng hóa được pháp luật cho phép trao đổi, mua bán.

Thứ tư, hợp đồng mua bán được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng theo quy định của pháp luật. Việc quy định các nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán phải tuân theo các nguyên tắc: tự do giao kết nhưng không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết hợp đồng… là lí do dẫn đến hợp đồng mua bán không có hiệu lực.

Thứ năm, hình thức hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật. Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì cần phải tuân theo quy định đó. Trường hợp các bên không tuân thủ hình thức hợp đồng khi pháp luật có quy định thì hợp đồng vô hiệu khi kí kết.

Ngoài ra, Luật Thương mại còn có quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân người nước ngoài như chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người nước ngoài, hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật nước bên mua và nước bên bán, …

 

2. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài

a. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo

Luật Trọng tài Thương mại (TTTM) 2010 không quy định cụ thể về các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, dựa vào quy định về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu có thể xác định được các điều kiện đảm bảo cho một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Cụ thể, Điều 18 Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau:

“1. Tranh chấp pháp sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.

2. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

3. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.

4. Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.

5. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.

6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật”.

     Từ quy định trên, có thể thấy, để xem xét thỏa thuận trọng tài trong tình huống có hiệu lực hay không cần dựa vào các tiêu chí sau:

a) Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài

Đối tượng của thỏa thuận trọng tài phải là các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010, bao gồm:

“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài”.

Xét tình huống, Công ty cổ phần A và Công ty cổ phần B là 2 thương nhân, mục đích của 2 bên khi tiến hành mua bán hàng hóa (mua bán gạo) là mục đích sinh lợi. Vì vậy, hoạt động mua bán gạo mà 2 bên thực hiện là hoạt động thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005. Từ đó, có thể thấy, tranh chấp về hoạt động mua bán gạo của 2 bên là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại – đối tượng của thỏa thuận trọng tài.

Như vậy, đối tượng thỏa thuận trọng tài giữa Công ty cổ phần A và Công ty cổ phần B là phù hợp với quy định của Luật TTTM 2010.

b) Về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài

Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền ký kết. Theo như tình huống thì chủ thể của thỏa thuận trọng tài là Công ty cổ phần A và Công ty Cổ phần B, người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài là giám đốc của 2 công ty. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020, người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài của loại hình doanh nghiệp này là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài. Tại khoản 2 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty có hơn một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty”. Như vậy, giám đốc Công ty Cổ phần có thể là đại diện theo pháp luật của công ty hoặc không, tùy vào các trường hợp cụ thể. Chính vì vậy, tình huống trên sẽ xảy ra 2 trường hợp sau:

-        Trường hợp 1: Giám đốc Công ty A và Giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp này thì Giám đốc của 2 công ty thỏa mãn yêu cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật TTTM 2010.

-        Trường hợp 2: Giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài. Với trường hợp này thì giám đốc của 2 công ty không đáp ứng điều kiện về chủ thể của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010.

c) Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài

Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định tại BLDS 2015. “Người ký kết” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là bao gồm cả chủ thể của thỏa thuận trọng tài và người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài. Xét tình huống, do người ký kết thỏa thuận trọng tài là giám đốc của 2 công ty nên mặc định 2 người này phải có năng lực hành vi theo quy định của BLDS 2015. Về 2 công ty A và B, sau khi ký kết hợp đồng mua bán gạo với nhau, Công ty B đã không giao hàng cho Công ty A, Công ty A yêu cầu Công ty B bồi thường thiệt hại nhưng Công ty B không đồng ý và xảy ra tranh chấp. Điều này có nghĩa đây là 2 công ty tồn tại và đang hoạt động trên thực tế nên nhóm cũng mặc định chúng có năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài ở tình huống thỏa mãn yêu cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010.

d)    Về hình thức của thỏa thuận trọng tài

Khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010 quy định : “Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Khoản 2 Điều này quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản và quy định một số thỏa thuận cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản.

Xét tình huống, thỏa thuận trọng tài giữa Công ty A và Công ty B được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo. Hợp đồng mua bán gạo được lập thành văn bản và được 2 bên ký kết.

Như vậy, thỏa thuận trọng tài của 2 công ty đảm bảo yêu cầu về hình thức theo quy định tại Luật TTTM 2010.

e) Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài

          Các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết thỏa thuận trọng tài. Theo như quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật TTTM 2010 thì nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và phải có thêm điều kiện là: có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài mới bị vô hiệu. Xét tình huống, không hề có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng mua bán gạo là kết qủa thỏa thuận của 2 bên, trong đó mỗi bên đều nhằm đạt được mục đích lợi nhuận của mình. Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng mua bán gạo, là thỏa thuận của các bên về phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó, thỏa thuận trọng tài trong tình huống được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, thống nhất ý chí của các bên.

          Như vậy, thỏa thuận trọng tài trong tình huống thỏa mãn yêu cầu về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật TTTM 2010.

          f) Về nội dung của thỏa thuận trọng tài: thỏa thuận trọng tài phải không được vi phạm điều cấm của pháp luật.

          Xét tình huống: Thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B có nội dung: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”. Như vậy, nội dung của thỏa thuận trọng tài này không hề vi phạm điều cấm của pháp luật nên thỏa mãn yêu cầu về nội dung của thỏa thuận trọng tài theo quy định  tại Luật TTTM 2010.

          Kết luận chung: Trong các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật TTTM 2010, thỏa thuận trọng tài của Công ty A với Công ty B thỏa mãn yêu cầu về đối tượng, hình thức, nội dung của thỏa thuận trọng tài, năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên còn điều kiện về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài tình huống không nêu rõ nên đưa ra kết luận sau:

-        Nếu giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.

-        Nếu giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài giữa 2 công ty không có hiệu lực pháp luật.

b. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài

Như trên đã phân tích, từ quy định tại Điều 18 Luật TTTM 2010, có thể thấy, các điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực bao gồm: đối tượng của thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài, năng lực chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài, hình thức của thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài, nội dung của thỏa thuận trọng tài

·       Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài

     Đối tượng của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật TTTM 2010. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài ở mức độ nhất định, không quá rộng cũng không quá hẹp. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bên khi tiến hành giao kết thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, so với các nước khác trên thế giới, thẩm quyền giải quyết của trọng tài Việt Nam còn hẹp, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm quyền của trọng tài rất rộng. Ví dụ Luật Trọng tài Trung Quốc quy định mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc quyền sở hữu giữa các công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác trên cơ sở bình đẳng đều có thể được giải quyết bằng thỏa thuận trọng tài (Điều 2), đồng thời loại trừ các tranh chấp không được giải quyết bằng trọng tài bao gồm các tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận nuôi con nuôi, giám hộ và thừa kế, tranh chấp hành chính (Điều 3). Điều 1 Luật Trọng tài Braxin quy định: “Những người có khả năng ký kết hợp đồng có thể đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”.

·       Thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài

     Một trong những vấn đề ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực pháp lý ràng buộc các bên khi người ký kết thỏa thuận trọng tài có thẩm quyền ký kết. Khi thỏa thuận trọng tài được ký kết bởi người không có thẩm quyền thì thỏa thuận đó không thể hiện được ý chí đích thực của các bên. Do đó, thỏa thuận trọng tài sẽ không còn ý nghĩa. Khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật”.

          Tranh chấp giữa cá nhân với nhau thì cá nhân đó chính là người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài. Các cá nhân này có thể ủy quyền cho người khác ký kết thỏa thuận trọng tài. Việc ủy quyền này phải tuân theo các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về đại diện theo ủy quyền. Đối với tranh chấp phát sinh giữa pháp nhân với pháp nhân thì người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân. Luật Doanh nghiệp 2020 đã quy định người đại diện theo pháp luật của từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.

          Như vậy, quy định về thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài trong Luật TTTM 2010 không thay đổi so với quy định tại Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Quy định này là hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật liên quan, tạo ra sự thống nhất khi áp dụng.

·       Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài

          Theo như quy định tại Luật TTTM 2010 thì người xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. “Người xác lập thỏa thuận” ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là cả cá nhân và pháp nhân bởi có những trường hợp một bên ký kết thỏa thuận trọng tài là doanh nghiệp không còn tồn tại trên thực tế và cũng không có tổ chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ, vì vậy mà thỏa thuận trọng tài đã ký không còn tồn tại trện thực tế nữa.

          Quy định này của Luật TTTM cũng không có thay đổi so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.

·       Về hình thức của thỏa thuận trọng tài

          Hình thức của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật TTTM 2010. So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2005 thì Luật TTTM 2010 đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng tài, tạo điều kiện tốt nhât cho các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài.

·       Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài

          Khoản 1 Điều 3 Luật TTTM quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”.Như vậy, thỏa thuận là yếu tố không thể thiếu đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Do đó, khoản 5 Điều 18 Luật TTTM đã quy định nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thảo thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài đó bị vô hiệu. Quy định này là hợp lý bởi nếu một trong các bên không có sự tự nguyện ý chí khi xác lập thỏa thuận trọng tài nhưng lại không có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài này vô hiệu tức là đã “ngầm” chấp thuận thỏa thuận trọng tài đã ký kết.

·       Về nội dung của thỏa thuận trọng tài

          Đây là điều kiện không được quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Khoản  6 Điều 18 Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật. Bổ sung này là rất hợp lý bởi điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Một thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật thì chắc chắn phải bị vô hiệu.

Kết luận chung: Luật TTTM 2010 khi quy định về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã khắc phục được những điểm hạn chế, thiếu sót của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho các bên khi xác lập thỏa thuận

 

3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?

Tháng 1/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua 1000 tấn gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn giao hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng. Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại 500 triệu đồng và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B không chấp thuận. Đáng lưu ý là mặc dù đã có thỏa thuận rằng “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Nhưng Công ty A quyết định khởi kiện ra Tòa án luôn mà không thông qua trọng tài thương mại.

Điều 6 Luật TTTM 2010 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.

Khi mà thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B không bị vô hiệu và hoàn toàn có thể thực hiện được thì Tòa án phải từ chối thụ lý đơn khởi kiện của Công ty A.

Như đã phân tích ở trên, sẽ có hai trường hợp xảy ra:

          TH1: Nếu giám đốc Công ty A và giám đốc Công ty B là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty hoặc là người được 2 công ty ủy quyền để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài của 2 công ty có hiệu lực.

          TH2: Nếu giám đốc Công ty A và Giám đốc ty B không phải là đại diện theo pháp luật của mỗi công ty và cũng không phải là người được mỗi công ty ủy quyền hợp pháp để ký kết thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài giữa 2 công ty không có hiệu lực pháp luật.

          Khoản 1, Điều 167 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định, tòa án phải Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình”.
          Như ta đã thấy, đây là vụ án tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai doanh nghiệp, thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án quy định tại Điểm a, khoản 1, Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự:

          “ Điều 29: Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án

1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:

          a) Mua bán hàng hóa;

Như vậy, trong trường hợp này thỏa thuận trọng tài của hai bên là vô hiệu, vì vậy theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010 và căn cứ theo Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của Công ty A.

 

4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu?

Công ty B đã vi phạm hợp đồng và gây tổn thất cho công ty A. Vì vậy, việc công ty A yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hợp lý và hợp pháp, dựa vào các căn cứ pháp lý sau đây:

·       Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty A: Vấn đề này được quy định trong Chương VII “Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại” Luật Thương mại 2005 mà cụ thể là trong Điều 302.

“Điều 302. Bồi thường thiệt hại:

1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”

Như trường hợp của công ty A, vì công ty B đã vi phạm hợp đồng dẫn tới thiệt hại cho công ty A, đồng thời, hành vi vi phạm của công ty B cũng thỏa mãn các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 303 LTM 2005 là:

Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;

2. Có thiệt hại thực tế;

3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.

+ Có hành vi vi phạm hợp đồng: Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ . Để xác định một hành vi có phải là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hay không cần căn cứ vào nghĩa vụ được xác lập theo hợp đồng. Việc không thực hiện hoặc chỉ thực hiện một phần nghĩa vụ đó đều bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng.

+ Có thiệt hại thực tế xảy ra:  Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là điều kiện đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế xảy ra cho bên bị vi phạm.

+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại: Ở đây tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại thực tế.

Theo như dữ kiện đầu bài nêu, thì rõ ràng hành vi của công ty B là không giao đúng và đủ số gạo như đã thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu giữa hai công ty là hành vi vi phạm hợp đồng. Và vì hành vi của công ty B đã dẫn tới hậu quả là công ty A đã không có đủ số gạo để giao cho đối tác và bị phạt vi phạm 200 triệu đồng. Ta có thể thấy hành vi không giao đủ số gạo của công ty B là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc công ty A bị đối tác phạt vi phạm.

·       Về việc phạt vi phạm mà công ty A áp dụng đối với công ty B

Cơ sở pháp lý của yêu cầu này xuất phát từ Điều 300 Luật Thương mại 2005:

“Điều 300. Phạt vi phạm

Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.”

Như đã phân tích, trong trường hợp này, công ty B là bên vi phạm hợp đồng, do đó công ty A có thể yêu cầu công ty B trả cho mình một khoản tiền phạt vi phạm. Tuy nhiên, khác với yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm chỉ đặt ra trong trường hợp trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận rõ là nếu bên nào vi phạm sẽ bị phạt vi phạm. Tức là hợp đồng trên thực tế của công ty A và công ty B phải có nội dung quy định về vấn đề phạt vi phạm này.

Khi xem xét vấn đề yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm cùng một hợp đồng thì ta cần chú ý đến quy định tại Điều 307 Luật Thương mại 2005:

“Điều 307. Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại

1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”

Quy định này để khẳng định thêm về vấn đề thỏa thuận giữa các bên về phạt vi phạm trong hợp đồng. Tức là nếu công ty A muốn yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của mình được Tòa án chấp nhận thì phải thỏa mãn quy định tại Điều 307 Luật Thương mại 2005.

Về mức bồi thường thiệt hại và mức phạt vi phạm mà công ty B phải chịu:

- Về mức bồi thường thiệt hại: Được quy định tại Khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại 2005:

“2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.

Theo như đầu bài đã cho, công ty A bị bên đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng, đây là tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty A (bên bị vi phạm) phải chịu do công ty B (bên vi phạm) gây ra. Vậy nên công ty B phải bồi thường cho công ty A số tiền này. Ngoài ra, công ty B phải bồi thường thêm một khoản tiền được coi là “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Vấn đề xác định khoản lợi trực tiếp ở đây là bao nhiêu thì sẽ tùy thuộc vào sự chứng minh của công ty A. Chúng ta không thể ấn định một con số cụ thể bởi trên thực tế, Luật Thương mại 2005 và ngay cả trong BLDS 2015 cũng không hề có quy định giới hạn mức bồi thường thiệt hại.

- Về mức phạt vi phạm: Được quy định tại Điều 301 Luật Thương mại 2005.

“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”

Do trên thực tế, công ty B chưa hề giao cho công ty A số gạo như đã ghi trong hợp đồng nên trong trường hợp này “phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” được hiểu là toàn bộ giá trị của hợp đồng. Giá trị hợp đồng giữa hai công ty này trị giá là 10 tỷ VNĐ. Vậy 8% của 10 tỷ là 800 triệu đồng

Như vậy, tổng hợp cả hai khoản là bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm (nếu yêu cầu được Tòa án chấp nhận) thì số tiền công ty B phải trả cho công ty A là 1 tỷ VNĐ cộng thêm số tiền là khoản lợi trực tiếp mà công ty A chứng minh được là công ty mình đáng lẽ đã được hưởng nếu không có hành vi vi phạm của công ty B (nếu được Tòa án chấp nhận).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Đăng nhận xét (0)
Mới hơn Cũ hơn