Câu
1
Ông A là tác giả của tác phẩm kiến trúc
“Vườn nghệ thuật Việt Nam” tác phẩm được gửi chọn tham dự triển lãm quốc tế tại
Trung Quốc và đoạt huy chương vàng cùng tiền thưởng. Sau khi trở về nước, tác
phẩm trên đã được công ty B thi công tại khu vui chơi V với sự đồng ý của ông
A. Sau khi khu vui chơi đi vào hoạt động, công ty B cũng bỏ ra nhiều chi phí để
quảng cáo cho khu vườn trở thành một điểm tham quan hấp dẫn của du khách thành
phố Hồ Chí Minh. Ông A yêu cầu công ty B phải trả thù lao quyền tác giả cho ông
là 15% doanh số bán vé. Công ty B từ chối, vì cho rằng hai bên chưa có thỏa
thuận về tiền thù lao. Anh (chị) giải quyết vướng mắc trên như thế nào?
Trả
lời:
1.
Ông A được pháp luật bảo hộ quyền tác giả:
1.1 Có thể chứng minh được một cách dễ
dàng ông A là tác giả của tác phẩm kiến trúc Vườn nghệ thuật Việt Nam bởi ông
đã đạt giải thưởng lớn với tác phẩm này.
1.2 Tác phẩm Vườn nghệ thuật Việt Nam
thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả:
Tác phẩm này thuộc diện tác phẩm kiến trúc
và đã được thể hiện dưới dạng vật chất nên ông A được bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm này (theo khoản 1 Điều 6 luật sở hữu trí tuệ và tiết i khoản 1
Điều 14 luật sở hữu trí tuệ được sửa đổi bổ sung bởi luật số 36/2009/QH12 –
Luật SHTT)
1.3 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Theo tiết b khoản 1 Điều 27 Luật SHTT thì
tác phẩm kiến trúc của ông A có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời ông A và 50
năm tiếp theo năm ông A mất. Như vậy quyền tài sản của ông A đối với tác phẩm
này vẫn trong thời gian được bảo hộ.
2. Ông A có quyền được hưởng thù lao quyền
tác giả từ công ty B:
2.1 Theo khoản 3 điều 20 luật SHTT thì khi
công ty B khai thác, sử dụng tác phẩm Vườn nghệ thuật Việt Nam của ông A, quảng
cáo, thu lợi nhuận, phải xin phép và trả thù lao quyền tác giả cho chủ sở hữu
quyền tác giả đối với tác phẩm đó.
Mặt khác, việc công ty B sử dụng, khai
thác tác phẩm Vườn nghệ thuật Việt Nam không nằm trong các trường hợp “sử dụng
sản phẩm đã được công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút,
thù lao” (quy định tại Điều 25 luật SHTT) mà nhằm mục đích thương mại nên công
ty B phải trả thù lao quyền tác giả cho ông A.
Công ty B nêu lý do chưa có thỏa thuận nào
về tiền thù lao vì thế mà không trả thù lao cho ông A thì công ty B đã xâm phạm
quyền tác giả và buộc phải trả một khoản thù lao cho tác giả của tác phẩm kiến
trúc đó.
2.2 Khoản thù lao mà tác giả được nhận
theo luật SHTT quy định là tùy thuộc thỏa thuận giữa hai bên tác giả và công ty
B chứ không nhất thiết là 15% doanh số vé.
Ông A đưa ra yêu cầu ông cho là phù hợp
với mức thù lao ông xứng đáng nhận được là 15% doanh số vé. Công ty B buộc phải
xem xét đề nghị đó và thỏa thuận với ông A mức thù lao công ty chấp nhận được,
hai bên phải ra được kết quả làm hài lòng nhất chứ công ty B không có quyền từ
chối trả thù lao.
Nếu hai bên không thể thỏa thuận sẽ phải
nhờ tới sự can thiệp của cơ quan chức năng ấn định mức thù lao.
Câu
2
Đài truyền hình Việt Nam (VTV) là chủ sở
hữu tại Việt Nam của những nhãn hiệu dịch vụ “Đường lên đỉnh Olympia” (nhóm 41-
dịch vụ giải trí). Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi Olympic Mac-LeNin.
VTV yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo phảo đổi tên cuộc thi để tránh nhầm lẫn với
nhãn hiệu “Olympia” của mình. Bộ GD&ĐT cho rằng tên gọi hai cuộc thi là
khác nhau, vả lại Omlympic là tên gọi phổ biến nên không thể được bảo hộ dưới
dạng NHHH. Anh (chị) đồng ý với ý kiến của ai?
Trả
lời:
Trong tình huống trên nhóm đồng ý với ý
kiến của Bộ GD- ĐT
1. Hai tên gọi hai cuộc thi “Đường lên
đỉnh Olympia” và “Olympic Mac- Lenin” là khác nhau và không dễ gây nhầm lẫn.
Olympia là tên một thành phố của Hi Lạp
ngày nay, Olympia trước đây là nơi diễn ra thế vận hội Olympic cổ đại. Tên gọi
Olympic là tên phiên âm tiếng việt của Olympiad (có từ cách đây gần 3000 năm)
bắt nguồn từ cuộc tranh tài thể thao giữa các quốc gia toàn thế giới và dần dần
phổ biến và mở rộng sang các cuộc thi về các môn khoa học ngoài thể thao mang tầm
quốc tế (có sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới) như: IMO (Olympic
toán học quốc tế), IPhO (Olympic vật lý quốc tế), IChO (Olympic hóa học quốc
tế),…. Việc sử dụng từ Olympic trong tên cuộc thi của Bộ GD& ĐT nhẳm thể
hiện tinh thần của thi đấu và cũng nhằm để công bố là đây là 1 cuộc thi về kiến
thức triết học Mac- Lenin. Còn chương trình truyền hình “ Đường lên đỉnh
Olympia” thể hiện sự vinh quang khi vượt qua bao khó khăn để chiến thắng của
người chơi, mượn ý nghĩa của đỉnh Olympia trong thần thoai Hy lạp trước để chỉ
nơi đạt đến vinh quang. => tính chất hai cuộc thi là khác nhau và tên gọi
cũng khác biệt.
2. Olympic là tên gọi phổ biến
Tên gọi Olympic đã có từ cách đây rất lâu
(gần 3000 năm), được biết đến rộng rãi nên biểu tượng cũng như tên gọi Olympic
thuộc về tất cả mọi người và được sử dụng rộng rãi, thương xuyên. Hiện nay, mọi
cuộc thi có tính mở rộng, người ta có thể sử dụng từ Olympic kèm tên lĩnh vực thi làm tên gọi cuộc thi.
2.1
Theo tiết b khoản 2 điều 74 luật SHTT, tên Olympic do quá thông dụng nên
được coi là nhãn hiệu không có khả năng phân biệt
2.2
Theo khoản 2 điều 72 luât SHTT, tên Olymic không được bảo hộ dưới dạng nhãn
hiệu hàng hóa bởi không có khả năng phân biệt.
2.3
Mặt khác, theo khoản 2 điều 73 luật SHTT, những dấu hiệu không được bảo
hộ với danh nghĩa nhãn hiệu là “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm
lẫn với tên viết tắt, tên đầy đủ của tổ chức quốc tế nếu không được tổ chức đó
cho phép. Từ Olympic trùng với tên Ủy ban quốc tế về thể thao nên sẽ không được
bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
=> Tên gọi cuộc thi “Olympic Mac- Lê
nin” sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa mà bất kỳ cá nhân tổ chức
nào cũng có thể sử dụng từ Olympic, hơn nữa tên gọi hai cuộc thi là khác nhau
như trên đã giải thích nên việc VTV yêu cầu bộ GD&ĐT đổi tên cuộc thi để
tránh nhầm lẫn với nhãn hiệu Olympia của mình là không hợp lý và không được
pháp luật chấp nhận.
Câu
3
Kỹ sư Thành đã nghĩ ra một loại đầu bút bi
đặc biệt khiến bi trơn hơn và ra mực đều hơn. Anh đã đăng ký bảo hộ phát minh
của mình. Điểm mấu chốt của phát minh này là tạo một khoảng trống giữa viên bi
và đầu bút bi. Anh Mạnh cho rằng việc thông khí hai đầu của một chất lỏng (
mực) khiến chất lỏng chảy đều hơn là chuyện trong nghề ai cũng biết. Hơn nữa,
anh Thành đã thông báo về phát minh của mình trước khi đăng ký bảo hộ. Vì vậy
phát minh của anh Thành không còn tính mới đối với thế giới nữa và không còn khả
năng được bảo hộ. Anh Mạnh có lý không? Tại sao?
Trả
lời:
1. Về tình huống
Phát hiện của anh Thành là một giải pháp
kỹ thuật, không nên gọi là phát minh như trong tình huống, bởi phát minh là từ
chỉ việc tìm ra những sự vật, hiện tượng, quy luật có sẵn trong tự nhiên nhưng
trước đó con người chưa biết tới. Còn giải pháp kỹ thuật là sản phẩm sáng tạo
của con người, không hề có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy mà loại đầu bút bi đặc biệt này- một thành quả lao động sáng tạo
trí tuệ được coi là một giải pháp kỹ thuật. Chúng ta đi xem xét xem giải pháp
này có được coi là một sáng chế không và có được bảo hộ dưới dạng sáng chế hay
không?
2. Sáng tạo về đầu bút bi đặc biệt của anh
Thành NẰM NGOÀI các đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế
Theo điều 59 luật SHTT về đối tượng không
dược bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
3. Giải pháp của anh Thành không đảm bảo
có trình độ sáng tạo, không được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng
chế
3.1
Anh Mạnh có lý khi cho rằng việc thông khí hai đầu của một chất lỏng
khiến chất lỏng chảy đều hơn là chuyện trong nghề ai cũng biết. Theo quy định
của điều 61 luật SHTT có thể thấy do phát hiện của anh Thành dựa trên giải pháp
kỹ thuật có sẵn trước đó mà cải tiến đi làm ưu việt hơn, hiệu quả hơn chứ chưa
phải là một bước tiến sáng tạo vượt trội hơn hẳn so với trình độ kỹ thuật hiện
tại và người trình độ trung bình trong nghề ai cũng có thể dễ dàng biết được
nên giải pháp kỹ thuật của anh Thành về đầu bút bi đặc biệt không được coi là
có trình độ sáng tạo.
3.2
Điều này liên quan đến điều kiện bảo hộ đối với sáng chế (điều 58 luật
SHTT). Trong đó, sáng chế phải đảm bảo có trình độ sáng tạo, có tính mới và khả
năng áp dụng công nghiệp mới được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng
chế.
=> Giải pháp kỹ thuật về đầu bút bi đặc
biệt của anh Thành không được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế
do không đảm bảo có trình độ sáng tạo.
4. Xem xét tính mới của giải pháp của anh
Thành
Theo như lời anh Mạnh thì anh Thành đã
thông báo về đầu bút bi đặc biệt này trước khi nộp đơn xin bảo hộ sáng chế
4.1
Trường hợp anh Thành thông báo cho một số người bạn có hạn được biết và
họ có nghĩa vụ giữ bí mật
Theo khoản 2 điều 60 luật SHTT, giải pháp
kỹ thuật này của anh Thành được coi là chưa bị bộc lộ công khai và vẫn đảm bảo
tính mới. Thêm vào đó, đầu bút bi đó có khả năng áp dụng công nghiệp (điều 62
luật SHTT) nên theo khoản 2 điều 58 luật SHTT thì giải pháp kỹ thuật này được
bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích
4.2
Trường hợp anh Thành công bố về giải pháp của mình dưới dạng báo cáo
khoa học hoặc trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại triển
lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức đồng thời đơn đăng ký bảo hộ được nộp trong
thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố
Theo tiết b, c khoản 3 điều 60 luật SHTT
thì trong trường hợp này đàu bút bi đặc biệt ,mà anh Thành sáng tạo ra vẫn đảm
bảo tính mới đồng thời đảm bảo có khả năng áp dụng công nghiệp (điều 62 luật
SHTT) nên được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích
(khoản 2 điều 58 luật SHTT)
4.3
Việc anh Thành thông báo về đầu bút bi đặc biệt của mình nằm ngoài 2
trường hợp nêu trên
Giải pháp kỹ thuật đó không đảm bảo tính
mới nên sẽ không được bảo hộ sáng chế.
5. Trường hợp anh Thành đã gửi đơn xin cấp
bằng bảo hộ sáng chế cho giải pháp của mình tại cơ quan quản lý nhà nước về
quyền sở hữu công nghiệp.
Sau khi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và
đánh giá thấy giải pháp đó không đủ điều kiện bảo hộ dưới hình thức sáng chế
nhưng vẫn đủ điều kiện được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp
hữu ích (khoản 2 điều 58 luật SHTT), thì cơ quan có thẩm quyền sẽ trả lại đơn
yêu cầu cấp bằng sáng chế và kèm theo là bản hướng dẫn đăng kí cấp bằng độc
quyền giải pháp hữu ích cho anh Thành.
Câu
4
Xưa nay người ta vẫn dùng phương pháp trộn
bê tông ướt giữa xi măng, sỏi và cát. Độ đông cứng của bê tông được tăng cường
bởi chất phụ gia X theo tỷ lệ k%. Một hôm do đãng trí anh Bình pha quá nhiều
phụ gia X, đồng thời lại cho sỏi vào trước khi cho phụ gia và phát hiện ra rằng
do sỏi tạo sẵn các kẽ hở trong hợp chất bê tông trước khi trộn, đồng thời tỷ lệ
phụ gia thích hợp hơn, nên bê tông đông cứng nhanh hơn hẳn, rất thích hợp cho
công trình hầm hay trụ cầu. Anh Bình xin đăng ký bảo hộ phát minh sáng chế,
song mọi người can rằng việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông là chuyện
hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng biết, vì thế anh sẽ không đủ tiêu chuẩn
để được bảo hộ. Họ có đúng không?
Trả
lời:
1.Việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông
của anh Bình KHÔNG thuộc đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế
Theo điều 59 luật SHTT về đối tượng không
dược bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
2. Giải pháp của anh Bình có khả năng áp
dụng công nghiệp
Theo điều 62 luật SHTT về khả năng áp dụng
công nghiệp của sáng chế.
3. Giải pháp tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông
mau đông của anh Bình không đáp ứng điều kiện có trình độ sáng tạo nên không đủ
tiêu chuẩn được bảo hộ độc quyền sáng chế
3.1. Theo điều 61 luật SHTT quy định thì
sáng chế có trình độ sáng tạo phải không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối
với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Việc tạo kẽ
hở làm hỗn hợp bê tông mau đông chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng
biết cho nên giải pháp đó của anh Bình được cho là không đảm bảo trình độ sáng
tạo.
3.2. Những người đóng góp ý kiến cho anh
Bình có lý khi nói rằng anh sẽ không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ sáng chế bởi
giải pháp của anh không đảm bảo có trình độ sáng tạo (theo khoản 1 điều 58 luật
SHTT).
4.
Xét tính mới của giải pháp anh Bình đưa ra.
Trường hợp giải pháp kỹ thuật này chưa
được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ
hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký
bảo hộ hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đăng ký sáng chế được hưởng
quyền ưu tiên. Giải pháp của anh Bình được coi là có tính mới (khoản 1 điều 60
luật SHTT). Mặc dù anh không được cấp bằng độc quyền sáng chế nhưng được cấp
bằng độc quyền giải pháp hữu ích. (khoản 2 điều 58 luật SHTT).
4.1. Trường hợp có một số người có hạn đã
biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về giải pháp này. Theo khoản 1, 2 điều 60 luật
SHTT thì việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông vẫn được coi là có tính
mới. Tương tự như ý trên, anh Bình sẽ được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích
4.2. Trường hợp giải pháp anh Bình có được
đã được công bố trước ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ.
- Nếu đơn đăng ký được nộp trong thời hạn
6 tháng kể từ ngày công bố và việc công bố thuộc các hình thức nêu trong tiết
a, b, c khoản 3 điều 60 luật SHTT thì giải pháp anh Bình đưa ra vẫn đảm bảo có
tính mới và tương tự vẫn được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
- Ngoài các trường hợp nêu trên, giải pháp
tạo kẽ hở làm bê tông mau khổ của anh Bình sẽ không đảm bảo tính mới và không
được bảo hộ độc quyền cả cho sáng chế lẫn giải pháp hữu ích.