1. Đối tượng nghiên cứu của luật so sánh mang tính ổn định và có phạm vi ranh giới rõ ràng.
SAI: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh. Các nước theo hệ thống pháp luật XHCN cho rằng đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh phải là pháp luật thực định, trong đó liệt kê các đối tượng mang tính cụ thể. Ngược lại các hệ thống pháp luật phương tây (như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống pháp luật của các nước Bắc Âu) lại cho rằng đối tượng nghiên cứu phải được xác định bằng cách khai quá hóa các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh, theo đó chính bản thân phương pháp nghiên cứu cũng sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh (Michael Bogdan). Nói cách khác Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh không hề có phạm vi, ranh giới rõ ràng.
2. Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt.
SAI: Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) p.p so sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) p.p so sánh chức năng.
3. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cũng là mục đích của luật so sánh.
SAI: Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự tương đồng vàà khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy nghiên cứu pháp luật nước ngoài chỉ là phương tiện chứ hoàn toàn không phải là mục đích. Nếu chỉ trình bày những hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài mà không đặt nó trong sự so sánh với các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tương đồng và khác biệt của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công trình so sánh luật.
4. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài là thành tố cơ bản của Luật so sánh.
SAI: Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy, nghiên cứu pháp luật nước ngoài không phải là thành tố cơ bản của Luật so sánh mà chỉ là một trong các phương tiện để tiến hành một công trình so sánh. Tóm lại, thành tố cơ bản của Luật so sánh khi tiến hành một công trình so sánh cụ thể chính là việc so sánh các đối tượng thông qua các so sánh tính của chúng (tính có khả năng so sánh giữa các đối tượng) chứ không phải là việc nghiên cứu pháp luật của một nước (việc nghiên cứu là để nhằm phục vụ cho việc so sánh mà thôi).
5. Luật so sánh là một ngành khoa học pháp lý độc lập.
SAI: Một ngành KH pháp lý độc lập đòi hỏi phải có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnhriêng, rõ ràng và cụ thể. Luật so sánh không có đối tượng điều chỉnh do nó không có quan hệ XH đặc thù, và vì vậy, nó không thể là ngành KH pháp lý độc lập được. Nói cách khác, Luật so sánh là ngành khoa học pháp lý cộng sinh chứ không phải là 1 ngành KH pháp lý độc lập.
6. Sự tồn tại các tên gọi môn học khác nhau được giải thích bởi sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực này tại các quốc gia.
SAI: Sự tồn tại các tên gọi môn học khác
nhau (“luật so sánh – Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative
Jurisprudence” trong tiếng Anh hay “so sánh luật – Rechtsvergleichung” trong
tiếng Đức…) không phải do sự khác biệt về vị trí, tính ứng dụng của lĩnh vực
này tại các quốc gia mà là do đây là thuật ngữ còn đang gây nhiều tranh cãi
trong giới nghiên cứu khoa học pháp lý trên thế giới. Thực tế cho thấy sự tranh
cãi này của các học giả xoay quanh bản chất và các vấn đề có liên quan về nội
dung của lĩnh vực học thuật này. Nhiều học giả cho rằng thuật ngữ “luật học so
sánh” có nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn rất nhiều so với thuật ngữ “luật
so sánh” (PGS. TS. Võ Khánh Vinh – Giáo trình luật học so sánh). Tuy nhiên ngày
nay đa số các học giả đã chấp nhận việc sử dụng 2 thuật ngữ này có thể thay thế
cho nhau, trong đó thuật ngữ “luật so sánh” ngày càng được sử dụng phổ biến hơn
trên thế giới.
7. Tại Việt Nam, thuật ngữ chính thức sử
dụng đặt tên cho môn học là “Luật học so sánh”
SAI: Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại
các tên gọi môn học khác nhau: “luật so sánh – Comparative Law”, “luật học so
sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh; hay “so sánh luật –
Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt
tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại VN là ĐH Luật Hà
Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh là Comparative Law và
tiếng Pháp là Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ “luật so sánh” đã
được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách
hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học.
8. Thuật ngữ “Luật so sánh” tạo ra sự nhầm
lẫn môn học này như một ngành luật, vì thế thuật ngữ này không được sử dụng một
cách rộng rãi để đặt tên cho khóa học.
SAI: Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ
Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm như khi ta thay “lịch sử pháp luật”bằng
“luật lịch sử” hoặc thay “XH học pháp luật” bằng “luật xã hội” chẳng hạn. Hơn
nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành
luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới – ngành
luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự,
luật dân sự, luật HNGĐ… Tuy nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành
từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong
các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế giới môn học này vẫn được
đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp: Droit
Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại VN, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt
tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại VN là ĐH Luật Hà
Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tên môn thi này là một dẫn chứng).
9. Luật so sánh chỉ được tiếp nhận tại các
nước XHCN và các nước trước đây thuộc khối XHCN vào những năm 90 của thế kỷ XX
vì còn có rất nhiều tranh luận về tên gọi và bản chất của lĩnh vực này.
SAI: Có thể lấy VN làm điển hình. Luật so
sánh đã được tiếp nhận tại VN từ khá sớm.à Hiến pháp1959 được xem như là một
trong những sản phẩm của so sánh pháp luật được thực hiện bởi các nhà làm luật
VN. Ở phương diện so sánh học thuật, trong giai đoạn từ 1954-1975 tại miền Nam
VN đã có một số công trình nghiên cứu luật so sánh mà đáng chú ý nhất là cuốn
sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của TS. Ngô Bá Thành xuất bản năm 1965
tại Sài gòn. Giai đoạn sau 1975 thì hiến pháp 1980 cũng là một trong số các kết
quả của các công trình so sánh luật trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp
của các nước theo khối XHCN. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật của VN giai
đoạn này có rất nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Liên Xô.
10. Nghiên cứu pháp luật và so sánh pháp
luật là hai loại hình họat động nghiên cứu khoa học không tách rời nhau và cùng
có chung mục đích, phương pháp tiến hành.
SAI: Mục đích của nghiên cứu pháp luật và
của so sánh pháp luật là hoàn toàn khác nhau. Mục đíchà của nghiên cứu pháp
luật đơn thuần chỉ là tìm hiểu về nó trong khi mục đích của so sánh pháp luật
là sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật để: (i) tìm ra sự tương đồng
và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng
và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết
trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các
vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề
mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả
những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael Bogdan).
11. Luật so sánh được xếp vào những ngành
khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhất do chúng có cùng mục đích nghiên cứu.
SAI: Luật so sánh được xếp vào nhóm những
ngành khoa học nghiên cứu các vấn đề chung nhấtà của hệ thống pháp luật cùng
với các lĩnh vực nghiên cứu khác như: lịch sử nhà nước & pháp luật, XH học
pháp luật v.v…Tuy nhiên mục đích nghiên cứu của chúng là hoàn toàn khác nhau.
So với Lịch sử nhà nước & pháp luật thì Luật so sánh cũng có cùng đối tượng
nghiên cứu, cũng sử dụng phương pháp so sánh lịch sử giống như Luật so sánh nhưng
Luật so sánh lại có mục đích nghiên cứu hoàn toàn khác. Mục đích của Luật so
sánh là tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khác
nhau, sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích
nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các
hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp
luật (Michael Bogdan).
12. Luật so sánh được xếp cùng nhóm với
các ngành khoa học pháp lý mang tính lý luận chung vì chúng có cùng phương pháp
nghiên cứu.
SAI: Luật so sánh được xếp vào nhóm những
ngành khoa học pháp lý mang tính lý luận chungà như: Lý luận lịch sử nhà nước
& pháp luật, XH học pháp luật v.v… Mặc dù Lý luận lịch sử NN&pháp luật
và Luật so sánh cùng sử dụng phương pháp nghiên cứu giống nhau là p.p so sánh
lịch sử nhưng không phải vì thế mà chúng được xếp chung thành 1 nhóm. Sở dĩ
chúng được xếp cùng 1 nhóm là bởi vì chúng có cùng đối tượng nghiên cứu: đó là
chuyên nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh hưởng tới toàn thể hoặc gần như
toàn thể hệ thống pháp luật trên thế giới (Michael Bogdan).
13. Tham khảo và tiếp thu pháp luật nước
ngoài trong mọi trường hợp đều có hiệu quả.
SAI: (Trang 74 & 75 Hà Nội).
14. Nguồn thông tin thứ yếu có những ưu
thế nhất định so với nguồn thông tin chủ yếu.
ĐÚNG: Nguồn thông tin thứ yếu là việc
nghiên cứu những công trình khoa học trong lĩnhà vực pháp lý. Ví dụ: các bình
luận khoa học về luật học hoặc khoa học pháp lý; giáo trình luật; tạp chí
chuyên ngành luật hoặc pháp lý. So với nguồn thông tin chủ yếu, những nguồn
thông tin thứ yếu này có những ưu thế nhất định của nó. Đó là:
(i)- Dễ tiếp cận: sách giáo khoa, sách
tham khảo chuyên ngành, các bài báo trong các tạp chí… là những nguồn thông tin
mở rất dễ tiếp cận, mọi lúc mọi nơi. Hơn nữa khỏi phải mất công chuyển ngữ.
(ii)- Đáng tin cậy: Bởi do chính các luật sư
thực hành, các thẩm phán đang hành nghề ở nước đó đã dày công nghiên cứu và đúc
kết. Chính bản thân nó đã là những công trình so sánh luật đáng tin cậy rồi.
(iii)- Là lựa chọn tất yếu: Về nguyên tắc,
nguồn tiếp cận trước tiên luôn phải là nguồn chủ yếu, chỉ khi nào gặp vướng mắc
mới nghiên cứu nguồn thứ yếu. Tuy nhiên có 1 ngoại lệ là nếu thực tế không có
nguồn chủ yếu để nghiên cứu thì việc sử dụng nguồn thứ yếu lại là lựa chọn duy
nhất.
15. Tính tương đồng và (hoặc) khác biệt được
giải thích trong khuôn khổ nội dung pháp luật thực định.
SAI: Một trong các nguyên tắc quan trọng
khi tiến hành các họat động nghiên cứu pháp luật nước ngoài đó là: “Phải nghiên
cứu pháp luật nước ngoài trong tính toàn diện và tổng thể của vấn đề”. “Tính
toàn diện” được thể hiện qua 2 góc độ, góc độ lý luận và góc độ thực tiễn, đồng
thời để tăng độ chính xác của công trình nghiên cứu thì cần phải sử dụng cả 2
phương pháp tiếp cận: trực tiếp và gián tiếp. “Tính tổng thể” được hiểu: Một
là, phải đặt vấn đề trong bối cảnh LS cụ thể của các điều kiện KT, CT, XH của
quốc gia đó; Hai là, phải xem xét trong chính sách pháp luật cụ thể của mỗi
quốc gia. Tóm lại, có làm được như vậy mới nhận biết và giải thích chính xác
tính tương đồng và khác biệt của các hệ thống pháp luật khác nhau.
16. Phương pháp đặc thù chỉ có ở Luật so
sánh.
SAI: Phương pháp đặc thù gồm: (i) p.p so
sánh lịch sử; (ii) p.p so sánh quy phạm; và (iii)à p.p so sánh chức năng. Trong
đó, có thể dễ dàng nhận thấy p.p so sánh lịch sử không những chỉ có ở Luật so
sánh mà còn được áp dụng để nghiên cứu rộng rãi trong các lĩnh vực khoa học
pháp lý khác chẳng hạn như nghiên cứu về lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật
chẳng hạn.
17. Phương pháp so sánh chức năng là phương
pháp hiệu quả nhất.
SAI: Thực tiễn nghiên cứu cho thấy phương
pháp so sánh chức năng chỉ là p.p được sửà dụng thường xuyên và phổ biến nhất
chứ không phải hiệu quả nhất. Mỗi p.p đều có những ưu, nhược điểm riêng. Việc
áp dụng p.p nào sẽ phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ nghiên cứu khác nhau. Trong
các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh thì không cóphương pháp nào được
xem là tối ưu, hiệu quả nhất bởi các phương pháp còn phụ thuộc vào trình độ của
người nghiên cứu. Cách tốt nhất là lồng ghép các phương pháp lại với nhau.
18. Phương pháp so sánh chức năng là phương
pháp đặc thù.
SAI: Tính đặc thù ở đây phải được hiểu
theo nghĩa rộng, đó là việc “được sử dụng thườngà
xuyên và phổ biến”. Nói cách khác, cần
phải hiểu p.p so sánh chức năng là phương pháp
được sử dụng thường xuyên và phổ biến chứ
không phải là một phương pháp nghên cứu đặc
thù của Luật so sánh.
19. Phương pháp so sánh chức năng là p.p
nghiên cứu độc lập của Luật so sánh.
ĐÚNG: Luật so sánh có 3 p.p nghiên cứu đặc
thù là: (i) p.p SS lịch sử; (ii) p.p SS qui phạm; và (iii) p.p SS chức năng.
Trong đó p.p SS chức năng dựa trên chức năng điều chỉnh các quan hệ XH của các
hiện tượng pháp lý, từ đó xđ những nguyên tắc pháp lý được sd để trực tiếp hoặc
gián tiếp điều chỉnh đ/v các quan hệ XH đó, đồng thời xđ những yếu tố về KT,
CT, VH, XH… đã tác động đến các giải pháp pháp lý đó như thế nào.
20. Do có cùng nguồn gốc pháp luật là Luật
La Mã nên hệ thống pháp luật XHCN và hệ thống pháp luật Pháp-Đức có sự tương đồng
về cấu trúc phân chia pháp luật thành luật công và luật tư.
SAI: Mặc dù hệ thống pháp luật XHCN chịu
nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu âu lục địa nhất là cácà chế định
pháp luật dân sự có nguồn gốc từ Dân luật La Mã (Corpus Juris Civilis) tuy
nhiên hệ thống pháp luật XHCN không có sự phân chia thành luật công và luật tư.
Theo Michael Bogdan thì điều này được giải thích bởi hệ thống pháp luật XHCN có
2 đặc tính cơ bản: (i)nó dựa trên nền tảng học thuyết Mác_Lê Nin về pháp luật;
và (ii) nó gắn chặt với nền kinh tế kế hoạch. Ở các nước XHCN chỉ có thể có
luật công mà không có luật tư là bởi vì học thuyết Mác-Lê Nin cho rằng quyền
lực nhà nước là thống nhất. Hơn nữa tại các quốc gia XHCN người ta chỉ công
nhận hình thức duy nhất là “công hữu về tư liệu sản xuất”, theo đó mọi hình
thức sở hữu tư nhân đều bị triệt tiêu, và do vậy luật tư không có đất để phát
triển cũng là lẽ tất yếu.
RetweetCảm ơnTrích dẫn Multi-Quote
thaithiman
#2 Đã gửi : 26/04/2019 lúc 03:18:18
PM
EMAIL FACEBOOK
BÁO
CÁO VI PHẠM
Danh hiệu: Gạo cội
Nhóm: Registered
Gia nhập: 10-03-2018
Bài viết: 978
Đến từ: TP. Hồ Chí Minh
Thanks: 53 times
Được cảm ơn: 166 lần trong 129 bài viết 21. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa chỉ sử
dụng một nguồn luật duy nhất là pháp luật thành văn.
SAI: Nguồn luật của Hệ thống pháp luật
Châu ân Lục địa hay còn được gọi là Hệ thống Dân luậtà (Civil Law) khá đa dạng
bao gồm: (i) luật thành văn (statute law) với tư cách là nguồn cơ bản; (ii) án
lệ (case law hay judge-made law); và (iii) tập quán pháp luật (legal custom –
hay La coutume trong tiếng Pháp); ngoài ra còn có các học thuyết pháp luật
(legal doctrine) và các nguyên tắc pháp luật (legal principháp luậtes). Như án
lệ chẳng hạn, ở các nước thuộc dòng họ Civil Law, án lệ tuy không được coi là
nguồn cơ bản của pháp luật nhưng lại được áp dụng hạn chế trong 1 số trường hợp
khi mà TP nhận thấy việc áp dụng luật thành văn (vốn bao gồm các qui định đã
quá cổ và không còn phù hợp – vd: BLDS Pháp) là bất khả thi hoặc cần phải được
giải thích theo quan điểm của cơ quan XX mới được xem là phù hợp với những bước
phát triển trong xã hội hiện đại. Ví dụ: Ở Pháp, trong lĩnh vực bồi thường
thiệt hại ngoài HĐ các TP buộc phải chủ yếu dựa vào án lệ vì trong BLDS rất ít
hoặc hầu như không có các quy định về vấn đề này.
22. pháp luật chung cho toàn bộ Châu Âu đều
được các nước ở Châu Âu tiếp thu một cách trực tiếp từ Luật La Mã.
SAI: Không có cái gọi là pháp luật chung
cho toàn bộ Châu Âu. Đối với hệ thống pháp luật của các nướcà Bắc Âu (Đan Mạch,
Phần Lan, Ai-len, Na-uy, Thụy Điển) thì Luật La Mã có ảnh hưởng không đáng kể
do cơ sở chung của hệ thống pháp luật các nước này là pháp luật của nước Đức cổ
(theo truyền thống luật của địa phương và luật của thành phố). Dẫn chứng: nếu
như các nước ở Châu âu lục địa như Pháp, Đức họ tiếp thu trực tiếp luật La Mã để
tạo nên những bộ dân luật đồ sộ của nước mình (điển hình là các Bộ Dân Luật nổi
tiếng của Pháp, Đức đều được xây dựng trên nền tảng của Dân luật La Mã – Corpus
Juris Civilis) thì ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy… người ta lại ban hành các bộ
luật chung để nhất thể hóa các luật dân sự, hình sự và luật tố tụng (theo hướng
quay về với các giá trị truyền thống của pháp luật địa phương và thành phố) mà
không hề có ý định tiếp thu luật La Mã để xây dựng các BLDS riêng của nước
mình.
Ở một cách tiếp cận khác, nước Anh ở Châu
Âu mặc dù cũng nằm trong sự kiểm soát của đế chế La Mã trong một thời gian khá
dài nhưng pháp luật Anh dường như lại không bị ảnh hưởng bởi pháp luật La Mã,
nó phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống các tòa án
chứ không phải từ việc giảng dạy luật La Mã từ các trường đại học tổng hợp như
ở châu âu lục địa.
23. Văn bản pháp luật là hình thức pháp
luật hoàn hảo nhất hiện nay.
SAI: Nếu phân loại các hệ thống pháp luật
hiện nay trên TG theo tiêu chí căn cứ vào hình thức pháp luật thìà ta thấy có 2
nhóm hệ thống pháp luật chính: (i) nhóm hệ thống pháp luật có hình thức pháp
luật chủ yếu là tiền lệ pháp (case law) như Anh, Mỹ, Canada, Úc…;và (ii) nhóm
hệ thống pháp luật có hình thức pháp luật chủ yếu là luật thành văn (statute
law) hay còn gọi là văn bản pháp luật (written law) bao gồm hệ thống pháp luật
Châu âu Lục địa và cả hệ thống pháp luật XHCN. Mỗi hình thức pháp luật này đều
có những ưu và nhược điểm nhất định và không có hình thức nào là hoàn hảo nhất:
ưu điểm của hình thức pháp luật này chính là nhược điểm của hình thức pháp luật
kia và ngược lại. Do đó không thể nói ở thời điểm hiện tại, văn bản pháp luật
là hình thức pháp luật hoàn hảo nhất. Hơn nữa, hiện nay do xu hướng hội tụ pháp
luật nên các nước sử dụng hình thức pháp luật chủ yếu là tiền lệ pháp (các nước
thuộc dòng họ Common law) và các nước sử dụng hình thức pháp luật chủ yếu là
luật thành văn (dòng họ Civil Law) đều tìm cách thu hẹp khoảng cách giữa hai
hình thức pháp luật này. Ở VN ta mặc dù không trực tiếp thừa nhận ánlệ, nhưng
theo tôi biết, đã có những đề án liên quan đến việc gián tiếp cho phép thừa
nhận án lệ tại VN, mà mộttrong những bước đi đầu tiên là chủ trương xuất bản định
kỳ tuyển tập các bản án Giám đốc thẩm của HĐTPTAND-TC; tiếp đó là bản án GĐT
của toà hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính của TAND Tối cao vàcuối
cùng là một số bản án của toà phúc thẩm TAND Tối cao, coi đó là nguồn thông tin
tham khảo cho các TP (lưu ý rằng “Công bố phán quyết của toà án” là một trong
những yêu cầu của Hiệp định TRIPS mà Việt Nam phải tuân thủ khi gia nhập WTO).
24. Pháp luật Anh – Mỹ sử dụng duy nhất là
án lệ.
SAI: Tại Anh: Cũng như các nước thuộc dòng
họ Common Law coi trọng án lệ (caseà law), ở Anh tuy luật thành văn không phải
nguồn cơ bản nhưng chúng vẫn được sử dụng như một nguồn luật. Các văn bản pháp
luật của Anh bao gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành được
gọi là các “Đạo luật công” nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ trên nhiều lĩnh vực
(Vd: Về luật nội dung có Đạo luật Tòa địa hạt 1984 (County Courts Act 1984); Về
luật hình thức có: Các quy tắc tố tụng dân sự1998 (Civil Procedure Rules 1998
gọi tắt là CPR), Đạo luật Tòa án 1971 (Courts Act 1971) hay Đạo luật cải tổ
hiến pháp 2005 (Constitutional Reform Act 2005). Thậm chí luật do Nghị viện Anh
ban hành còn có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra vì được làm ra nhằm
bổ sung hoặc thay thế án lệ. Đạo luật thành văn có thể phủ nhận hiệu lực trong
tương lai của 1 án lệ nào đó và thậm chí còn có hiệu lực hồi tố, có thể làm cho
bản án nào đó đã tuyên trở nên vô hiệu.
Ngoài các Đạo luật công do Nghị viện ban
hành còn có các văn bản dưới luật do Nghị viện ủy quyền ban hành (gọi là văn
bản pháp luật ủy quyền – delegated legislations). Tại Mỹ: Hiến pháp Mỹ, với tư
cách là một hiến pháp thành văn, là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý tối
cao đối với người Mỹ, là đạo luật cơ bản của quốc gia. Ngoài ra, hệ thống pháp
luật thành văn của Mỹ rất phát triển với đội ngũ những nhà lập pháp có trình độ
cao, đã cho ra đời rất nhiều bộ luật và đạo luật có giá trị thực tiễn và tính
ổn định cao, ở cả cấp độ Liên Bang và cấp độ Tiểu Bang. Mặc dù mỗi bang của Mỹ đều
có quyền ban hành pháp luật thành văn riêng cho mình nhưng vẫn có những văn bản
pháp luật chung được áp dụng thống nhất mà nổi đình nổi đám nhất là Bộ luật thương
mại thống nhất (Uniform Commercial Code) đã được chấp nhận tại 50 Bang và Bộ
luật hình sự mẫu (Model Penal Code) đã được chấp nhận tại hơn 25 Bang tại Mỹ.
25. Bản chất pháp luật ảnh hưởng đến cơ
cấu nghề luật của quốc gia.
ĐÚNG: Có thể lấy Anh làm một ví dụ hết sức
điển hình. Bản chất pháp luật đã ảnh hưởng hếtà sức sâu sắc đến cơ cấu nghề
luật tại Anh. Do đặc thù lịch sử mà pháp luật Anh, về bản chất, phát triển gắn
liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống các tòa án chứ không phải từ
việc giảng dạy luật La Mã từ các trường đại học tổng hợp như ở các nước Châu âu
lục địa. Điều này dẫn đến việc ở Anh không có cấu trúc nghề nghiệp riêng cho Thẩm
phán (Judges). Thẩm phán tại Anh không phải là một nghề được đào tạo chính quy
mà các thẩm phán thường được bổ nhiệm từ các luật sư tranh tụng có kinh nghiệm
(Senior Barristers); và từ các luật sư tư vấn (Solicitors) với điều kiện hết
sức hạn chế và chỉ kể từ khi Luật cải tổ HP 2005 có hiệu lực. Về cấu trúc nghề
luật sư thì cũng chính do bản chất pháp luật Anh như đã nói ở trên mà ở Anh các
luật sư thực hành được phân thành hai nhóm: Luật sư tư vấn (Solicitors) và luật
sư bào chữa (Barristers). Từ thời trung cổ, LS tư vấn của Anh có quyền thực
hiện các nhiệm vụ mà LS ở hầu hết các nước trên thế giới thực hiện nhưng chỉ
trừ việc tham gia phiên tòa. Trong khi đó nhiệm vụ chính của LS bào chữa là
xuất hiện trước tòa. Ở Anh, khách hàng không liên hệ trực tiếp với các LS bào
chữa mà phải thông qua sự giới thiệu của các LS tư vấn. Cũng bởi bản chất pháp
luật Anh mà nghề LS bào chữa được coi là nghề phục vụ công lý với truyền thống
mà theo đó, LS bào chữa không có quyền luật định đối với việc đòi thù lao, hơn
nữa anh ta không có quyền từ chối bất cứ khách hàng nào trừ 1 số vụ việc cụ thể
( do thiếu kiến thức chuyên môn trong 1 lĩnh vực pháp luật cụ thể).
26. Bản chất pháp luật được quyết định bởi
yếu tố lịch sử.
ĐÚNG: Suy cho cùng thì việc so sánh bản
chất pháp luật của các hệ thống pháp luật trênà thế giới thực chất là tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật để từ đó lý giải
nguồn gốc của sự tương đồng và khác biệt đó. Bằng cách áp dụng phương pháp so
sánh lịch sử ta nhận thấy sự tương đồng và khác biệt vềbản chất pháp luật chính
là do yếu tố lịch sử quyết định. Nói cách khác yếu tố LS nói lên đặc trưng cơ
bản của từng hệ thống pháp luật.
27. Vai trò làm luật của các thẩm phán ở
các quốc gia theo truyền thống Châu âu lục địa là khả thi trong một số trường
hợp đặc biệt.
ĐÚNG: Các trường hợp đặc biệt điển hình
nhất là tại Pháp và Đức. Tại Pháp, tuy án lệà không có tính ràng buộc chính
thức nhưng trong một số trường hợp thì thẩm phán cũng có quyền làm luật. Ở
Pháp, các bản án của Tòa phá án (Cour de Cassation) thuộc nhánh tòa tư pháp
trong 1 số trường hợp sẽ trở thành án lệ và sẽ được áp dụng chung trên toàn
quốc. Các bản án này luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng và thường được các tòa án
cấp dưới và chính Tòa Phá Án tuân thủ. Bên nhánh tòa hành chính thì Tham chính
viện (Conseil d’Etat) cũng có thẩm quyền đưa ra ý kiến hướng dẫn giải quyết vụ
việc theo yêu cầu của các tòa án hành chính sơ thẩm hoặc của tòa hành chính
phúc thẩm. Tại Đức, các thẩm phán của Tòa án Hiến pháp vừa có chức năng xét xử
vừa có chức năng làm luật. Những bản án liên quan đến các vấn đề về hiến pháp
của Tòa án Hiến pháp sẽ là 1 nguồn luật tại Đức. Như vậy thẩm phán ở các quốc
gia theo truyền thống CÂLĐ trong 1 số trường hợp đặc biệt cũng có chức năng làm
luật.
28. Nguồn luật của các quốc gia thuộc hệ
thống pháp luật Châu âu lục địa không bao gồm án lệ.
SAI: (xem câu trên)
29. Một quốc gia mà đa số dân theo Hồi
giáo thì được coi là thuộc hệ thống pháp luật Hồi giáo.
SAI: Inđonesia ở Đông Nam Á và Thổ Nhĩ Kỳ
ở Châu Âu tuy có đa số dân theo Hồi giáoà nhưng không phải là 1 quốc gia thuộc
hệ thống pháp luật Hồi giáo bởi lẽ để thuộc hệ thống pháp luật Hồi Giáo thì một
quốc gia phải thỏa mãn đầy đủ 2 điều kiện: (i) Hồi giáo phải là tôn giáo chính
thống hay quốc đạo của quốc gia đó; và (ii) pháp luật phải được xây dựng trên
nền tảng của Đạo Hồi và các qui định của nó. Như vậy, Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ
tuy thỏa mãn điều kiện thứ nhất nhưng không được coi là thuộc hệ thống pháp
luật Hồi Giáo do không thoả mãn được điều kiện thứ hai: có nghĩa là pháp luật
buộc phải được xây dựng trên cơ sở Thánh kinh Coran.
30. Pháp điển hóa tại châu âu được bắt đầu
từ thế kỷ XIX với việc ra đời Bộ dân luật Napoleon.
SAI: Pháp điển hóa tại Châu Âu đã bắt đầu
từ thế kỷ thứ XII bởi vì hệ thống pháp luật CÂLĐ đượcà hình thành từ thế kỷ XII
trên cơ sở tiếp thu Luật La Mã. Tại Châu Âu vào thế kỷ XII và XIII diễn ra
phong trào Văn hóa Phục hưng, trong đó có việc khôi phục truyền thống pháp luật
La Mã (Corpus Juris Civilis). Sau khi tìm được nguyên văn Bộ Dân Luật Corpus
Juris Civilis, các học giả đã bắt tay vào nghiên cứu, giải thích cũng như hiện đại
hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với tình hình XH thời đó. Nơi nổi tiếng
nhất trong việc nghiên cứu, truyền bá Bộ Dân luật La Mã này là các trường ĐH ở
vùng Bắc nước Ý trong đó nổi tiếng nhất là ĐH Bologna. Từ trường ĐH này, các
nhà luật học của các nước Châu Âu đã trở về nước của họ, truyền bá và gieo rắc
tư tưởng cũng như nội dung của Dân luật La Mã. Họ mở trường luật ở Paris,
Oxford, Prague, Heidelburg, Conpenhague; họ làm luật sư cho giáo hội, cho các
vua chúa các vùng lãnh thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung theo 1 nội
dung, luật gia của các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ dân luật của nước họ
dựa trên nền tảng chung của Luật La Mã.
31. Vì là cơ quan tài phán hành chính nên
thẩm quyền của Hội đồng nhà nước bao gồm hoạt động xét xử các tranh chấp hành
chính.
32. Nguyên tắc nhị nguyên trong cấu trúc
tòa án nước Pháp dẫn tới tình trạng tồn đọng án do có sự tranh chấp về thẩm
quyền giữa hai nhánh: tòa tư pháp và tòa hành chính.
33. Thực tiễn xét xử ở nước Pháp không được
xem là nguồn luật vì theo quy định Điều 5 BLDS Pháp, thẩm phán không có thẩm
quyền làm luật
34. Với mục đích bổ sung cho tính cứng
nhắc, thiếu công bằng của thông luật, luật công bằng không được xem là một bộ
phận pháp luật độc lập trong hệ thống pháp luật Anh.
SAI: Không thể nói thông luật Anh (Common
Law) là cứng nhắc và thiếu công bằng.à
35. Vì là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống
pháp luật nước Anh nên nguyên tắc Stare decisis – “tiền lệ phải được tuân thủ”
có tính chất hoàn hảo, không nhược điểm.
SAI: Trong một số trường hợp thông luật
Anh (Common Law) vẫn bộc lộ một số nhượcà điểm và các nhược điểm này được bổ
khuyết bởi chế định luật công bằng (Equity Law).
36. Luật thành văn là nguồn luật thứ yếu
tại Anh.
SAI: Không thể nói luật thành văn là nguồn
luật thứ yếu tại Anh. Trong vài thập kỷ gần đây, tại Anh, án lệ (case law) đã không
còn là một nguồn luật duy nhất (mặc dù nó vẫn là nguồn luật cơ bản và chính
thống) mà thực tế là luật thành văn đã ngày càng trở nên một nguồn luật quan
trọng, thậm chí là nguồn luật quan trọng hàng đầu, đặc biệt đối với các lĩnh
vực không có án lệ. Hơn nữa, thực tiễn hội nhập về kinh tế giữa các quốc gia
trên thế giới nói chung và các nước có hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common
Law nói riêng đã buộc các quốc gia phải thực hiện các cam kết quốc tế mà họ đã
ký kết hoặc tham gia. Trong tiến trình đó, các quốc gia (trong đó có Anh) phải
nội luật hóa các cam kết quốc tế bằng cách sửa đổi luật hiện hành có liên quan
hoặc ban hành luật mới nếu chưa có luật điều chỉnh trên lĩnh vực đó. Việc làm
này chỉ có thể được tiến hành một cách nhanh gọn và dứt khoát bằng con đường
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thành văn.
37. Trong hệ thống pháp luật Anh, luật
thành văn được ưu tiên áp dụng.
SAI: Luật thành văn ở Anh chỉ được ưu tiên
áp dụng trong một số trường hợp nhằm bổà sung hoặc thay thế án lệ trên một số
lĩnh vực cụ thể. Các văn bản pháp luật của Anh trước tiên bao gồm các văn bản
pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành được gọi là các “Đạo luật công” nhằm
bổ sung hoặc thay thế án lệ trên nhiều lĩnh vực. Có thể đưa ra đây 1 số ví dụ:
Về luật nội dung có Đạo luật Tòa địa hạt 1984 (County Courts Act 1984); Về luật
hình thức có: Các quy tắc tố tụng dân sự 1998 (Civil Procedure Rules 1998 gọi
tắt là CPR), Đạo luật Tòa án 1971 (Courts Act 1971) hay Đạo luật cải tổ hiến
pháp 2005 (Constitutional Reform Act 2005)…. Trong các trường hợp như vậy, luật
do Nghị viện Anh ban hành sẽ có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán làm ra vì
chúng được làm ra nhằm bổ sung hoặc thay thế án lệ. Và chỉ trong các trường hợp
này, Đạo luật do Nghị viện ban hành mới có thể phủ nhận hiệu lực trong tương
lai của 1 án lệ và thậm chí còn có hiệu lực hồi tố, làm cho bản án nào đó đã
tuyên trở nên vô hiệu.
38. Pháp luật của Anh hình thành từ thực
tiễn xét xử.
ĐÚNG: Sự ra đời của thông luật Anh (Common
Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưuà động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó
là việc vào mùa hè các TP của TA Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành
XX. Đến mùa đông thì họ lại tập trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút
kinh nghiệm. Như vậy, thông qua quá trình thực tiễn XX, các TP hoàng gia ra
quyết định giải quyết tranh chấp theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách
họ hiểu và nhận thức như thế nào về các tập quán địa phương. Cũng trong quá
trình XX lưu động khắp đất nước, các TP sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập
quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter vào mùa đông thì các TP lại có cơ hội
gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm trong thực tiễn XX của mình. Những trao
đổi này thường xoay quanh những vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp
dụng và cả những phán quyết mà họ đã đưa ra.
Trong quá trình thảo luận họ phân tích
những điểm mạnh và cả những điểm yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp
dụng để giải quyết những vụ việc tương tự, từ đó hình thành thói quen khi XX
các TP thường tự nguyện tham khảo các phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ
việc có tính tương đồng về mặt tình tiết. Càng về sau các TP Hoàng gia ngày
càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết định giống nhau trên khắp đất nước và
cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung) đã dần thay thế cho các tập quán địa
phương.
39. Thông luật của nước Anh theo nghĩa
rộng không chịu sự ảnh hưởng của Luật La Mã vì được hình thành từ thực tiễn xét
xử.
ĐÚNG: (Xem câu trên)
40. Thông luật Anh hình thành từ các nhà
lập pháp dựa trên cácà tập quán địa phương.
SAI: Thông luật Anh (Common Law) được hình
thành bằng con đường nội tại và doà chính các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia
tạo ra. Sự ra đời của thông luật Anh (Common Law) bắt nguồn từ cơ chế xét xử lưu
động có từ thời Vua Henry II thế kỷ XV. Đó là việc vào mùa hè các TP của TA
Hoàng gia tỏa đi khắp đất nước để tiến hành XX. Đến mùa đông thì họ lại tập
trung về Wesminster để ngồi lại trao đổi rút kinh nghiệm. Như vậy, thông qua
quá trình thực tiễn XX, các TP hoàng gia ra quyết định giải quyết tranh chấp
theo 1 cách thức đặc biệt: phụ thuộc vào cách họ hiểu và nhận thức như thế nào
về các tập quán địa phương. Cũng trong quá trình XX lưu động khắp đất nước, các
TP sẽ có cơ hội làm quen với nhiều tập quán khác nhau. Đến khi trở về Wesminter
vào mùa đông thì các TP lại có cơ hội gặp gỡ và trao đổi vễ những kinh nghiệm
trong thực tiễn XX của mình.
Những trao đổi này thường xoay quanh những
vụ án mà họ đã XX, những tập quán mà họ đã áp dụng và cả những phán quyết mà họ
đã đưa ra. Trong quá trình thảo luận họ phân tích những điểm mạnh và cả những điểm
yếu của các tập quán khác nhau để có thể áp dụng để giải quyết những vụ việc tương
tự, từ đó hình thành thói quen khi XX các TP thường tự nguyện tham khảo các
phán quyết đã có sẵn để giải quyết các vụ việc có tính tương đồng về mặt tình
tiết. Càng về sau các TP Hoàng gia ngày càng áp dụng thường xuyên hơn các quyết
định giống nhau trên khắp đất nước và cuối cùng Common Law (nghĩa là luật chung)
đã dần thay thế cho các tập quán địa phương.