TIỂU LUẬN: BÀN VỀ ĐIỀU TRA
VIÊN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
A. MỞ
ĐẦU
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, Cơ
điều tra được tổ chức, thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Viện kiểm sát quân sự trung ương. Cơ quan điều tra VKSNDTC có Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng, Điều tra viên và các chức danh khác. Trong đó, Điều tra viên là
chức danh tư pháp chủ chốt, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện thẩm
quyền, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong
nhiều năm qua, điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang dần khẳng định
được vị trí và vai trò của mình trên con đường phát hiện, xử lý và đấu tranh
với tôi phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Cũng chính qua những hoạt động đó cũng
trên thực tiễn cũng bộc lộ không ít những quy định còn hạn chế về Điều tra viên
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, vấp phải nhiều ý kiến trái chiều về trình
độ năng lực và điều kiện thi hành chức danh của điều tra đó. Do đó em xin được
lựa chọn chủ đề: “Điều tra viên cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
– những vấn đề lý luận và thực tiễn” để phân tích và đưa ra kiến nghị của mình
về vấn đề trên.
I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA VIÊN CƠ QUAN ĐIỀU
TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động
tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ
quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án, người có
thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân
dân là chức danh quan trọng,là chủ thể trực tiếp thực hiện vai trò điều tra được
quy định cho cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tại khoản 1 điều 45 luật Tổ chức cơ quan điều
tra hình sự 2015 quy định: “Điều tra viên là người được bổ nhiệm để làm nhiệm
vụ điều tra hình sự”. Như vậy qua chức năng của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và khái niệm về điều tra viên theo quy định của luật Tổ chức
cơ quan điều tra hình sự 2015 có thể hiểu điều tra viên của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao là những người được bổ nhiệm là nhiệm vụ điều tra hình sự đối với
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân tối
cao.
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao cũng tương tự như các điều tra viên khác bao gồm 3 ngạch: Điều tra viên sơ
cấp, điều tra viên trung cấp và điều tra viên cao cấp
Điều tra viên là một chức danh tư pháp theo
đó nhiệm kỳ của điều tra viên cũng giống như các chức danh tư pháp khác được bổ
nhiệm lần đầu có thời hạn là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng
ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Là người làm việc trong một trong những cơ
quan có nhiệm vụ điều tra nên ngoài việc tuân thủ theo các quy định của luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 , điều tra viên của cơ quan điều tra còn phải
trực tiếp chịu sự điều chỉnh của các quy định tại luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự 2015.
Do đó căn cứ vào điều 30 luật Tổ chức
cơ quan Điều tra hình sự 2015 quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, điều 53 quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của điều tra viên và
Điều 92 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Điều tra viên của viện kiểm
sát nhân dân tối cao có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
-
Điều tra viên được tiến hành các hoạt động
kiểm tra, xác minh và các hoạt động điều tra thuộc thẩm quyền của cơ quan điều
tra theo sự phân công của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra
-
Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự khi đang được phân công giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và điều tra vụ án hình sự, tiến
hành Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức
vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan Điều tra,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm
quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân.
-
Điều tra viên có trách nhiệm áp dụng các
biện pháp theo quy định của BLTTHS và pháp luật khác có liên quan để điều tra,
xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ
-
Điều tra viên phải tuân theo pháp luật và
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra
-
Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố
tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp BLTTHS quy định
-
Chấp hành quy định của pháp luật về những
việc cán bộ, công chức không được làm
-
Điều tra viên chịu trách nhiệm trước pháp
luật và trước thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra về hành vi, quyết
định của mình
-
Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, Điều kiện làm phát sinh tội phạm.
-
Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác
Điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Như
vậy, về nhiệm vụ, quyền hạn có thể thấy nhìn chung Điều tra viên của cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao không có nhiều sự khác biệt đối với các
điều tra viên của các cơ quan điều tra khác, đều có những nhiệm vụ quyền hạn
chung được quy định theo luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015. Ngoài ra
còn có những nhiệm vụ mang tính đặc thù của mỗi cơ quan ở phạm vi hoạt động của
mình. Điều tra viên của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có phạm
vi hoạt động hẹp hơp so với điều tra viên thông thường, phần lớn các hoạt động
chỉ tập trung điều tra, xử lí các công việc liên quan đến tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp. Do đặc thù này nên đối tượng điều tra của Điều tra viên cũng
bó hẹp hơn trong phạm vi những người thực hiện các công việc liên quan đến sự
hoạt động khách quan, nghiêm minh, trong sạch của hệ thống tư pháp nước ta như:
những chủ thể làm việc tại Tòa án , Viện kiểm sát, các cơ quan điều tra khác,
chứ không hướng tới toàn bộ các chủ thể khác trong xã hội.
Tiêu chuẩn bổ nhiệm của Điều tra viên của
VKSND tuân thủ theo quy định chung và
quy trình bổ nhiệm Điều tra viên được quy định tại luật Tổ chức cơ quan điều
tra 2015.Theo quy định tại Điều 46 Luật tổ chức cơ quan Điều tra
hình sự năm 2015 để là điều tra viên phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chung
sau:
1.
Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.
Có trình độ đại học An ninh, đại học Cảnh sát hoặc cử nhân luật trở lên.
3.
Có thời gian làm công tác pháp luật theo quy định của Luật này.
4.
Đã được đào tạo về nghiệp vụ điều tra.
5.
Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao
Tiêu
chuẩn chung cho điều tra viên vẫn còn mang tính lý thuyết cao, vẫn còn quy định
chung chung chưa cụ thể rõ ràng. Quy định này vừa để thích hợp với đặc thù của
mỗi cơ quan điều tra khác nhau tuy nhiên cũng đem lại nhiều thắc mắc và băn
khoăn trong việc hiểu luật. Ví dụ như quy định tại khoản 1 về bản lĩnh chính
trị vững vàng hay tại khoản 5 về việc có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ, vậy phải căn cứ vào đâu để đánh giá là đã đạt được chuẩn quy định này cũng
là vấn đề khiến nhiều người còn vướng mắc.
Điều
tra viên là chức danh tư pháp được chia thành 3 ngạch như Kiểm sát viên đó là :
-
Điều tra viên sơ cấp
-
Điều tra viên trung cấp
-
Điều tra viên cao cấp
Như
vậy ngoài tiêu chuẩn chung tùy vào mỗi ngạch mà tiêu chuẩn bổ nhiệm của Điều
tra viên mỗi ngạch sẽ được nâng lên theo những mức nhất định. Căn cứ Quy định
tại Điều 47, 48, Điều 49 Luật tổ chức cơ quan Điều tra hình sự năm 2015 có các
tiêu chuẩn bổ nhiệm như sau:
Đối
với điều tra viên sơ cấp: cần đảm bảo thời gian công tác pháp luật từ 04 năm
trở lên; có năng lực điều tra các vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên sơ cấp
Đối
với điều tra viên trung cấp: đã là điều
tra viên sơ cấp ít nhất 5 năm; có
năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng; có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp;
đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp.
Ngoài ra,
trường hợp do nhu cầu cán bộ của Cơ quan Điều tra, người đã đáp ứng được các
tiêu chuẩn chung cho điều tra viên và đáp ứng một số điều kiện khác như có năng
lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp;
đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp, đã có
thời gian làm công tác pháp luật từ 09 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm
Điều tra viên trung cấp chứ không cần tuân thủ quy định về thời gian làm điều
tra viên sơ cấp nữa.
Đối với điều
tra viên cao cấp : đã là Điều tra viên trung
cấp ít nhất 05 năm; có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội phạm rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; có khả năng nghiên cứu, tổng
hợp, đề xuất biện pháp phòng, chống tội phạm; có khả năng hướng dẫn các hoạt
động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp; đã trúng tuyển
kỳ thi vào ngạch Điều tra viên cao cấp.
Trong
trường hợp do nhu cầu cán bộ của Cơ quan Điều tra, người tuy không đáp ứng được
quy định về thời gian làm điều tra viên trung cấp nhưng đáp ứng được các điều
kiện còn lại và đã có thời gian làm công
tác pháp luật từ 14 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên cao
cấp.
Như vậy có thể thấy tiêu chuẩn để bổ nhiệm
điều tra viên tăng dần theo các ngạch, ngạch càng cao thì yêu cầu về trình độ
nghiệp vụ, sự tích lũy kinh nghiệm, thời gian công tác càng phải tăng cao. Để
là điều tra viên nói chung hay là điều tra viên của VKSND thì thông thường đều
phải trải qua kỳ thi tuyển điều tra viên của Hội đồng thi tuyển. Đối với Điều
tra viên của VKSND sẽ trải qua kỳ thi tuyển của Hội đồng thi tuyển Điều tra viên ở Viện kiểm sát nhân dân
tối cao gồm có Chủ tịch là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ định; các ủy viên là đại diện Uỷ
ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đại diện lãnh đạo Viện kiểm sát
quân sự Trung ương, Cơ quan Điều tra và Vụ Tổ chức Cán bộ Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Danh sách uỷ viên Hội đồng thi tuyển Điều tra viên ở Viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết
định theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng thi tuyển.
Việc thông qua kỳ thi tuyển tạo nên sự khách quan, công
bằng trong việc lựa chọn, đánh giá đúng những người có năng lực đảm nhiệm công
tác điều tra cho cơ quan điều tra. Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào
cũng phải trở qua thi tuyển mới có thể trở thành Điều tra viên trung cấp và
Điều tra viên cao cấp. Luật có quy định trong những trường hợp đặc biệt, tuy
không đáp ứng được những tiêu chuẩn về thời hạn công tác, chưa được đào tạo về
nghiệp vụ nhưng nếu đáp ứng được các điều kiện còn lại thì vẫn có thể được bổ
nhiệm làm điều tra viên cho hai ngạch trên. Đây là sự linh động của luật pháp, trọng dụng được người có năng
lực trong những trường hợp đặc biệt nhưng bên cạch đó cũng đặt ra các câu hỏi
khác về sự nhạy bén, sắc sảo trong công tác và chuyên môn nghiệp vụ của những
người được bổ nhiệm theo diện này. Mặt khác việc quy định các trường hợp đặc
biệt cũng không được quy định một cách rõ ràng có thể dẫn đến việc lạm dụng quy
định này trên thực tiễn.
4. Sự khác biệt giữa Điều tra viên của VKSND và Điều
tra viên của CQĐT
Mặc dù đều là chức danh
điều tra viên và có nhiều điểm chung nhất định những giữa điều tra viên của
VKSND và điều tra viên của CQĐT vẫn có những khác biệt nhất định về mặt lý
luận, nhiệm vụ và hoạt động thực tiễn mà cần phải nắm để từ đó có cái nhìn tổng
quát nhất về điều tra viên của các cơ quan. Có thể theo dõi sự khác nhau cơ bản
giữa điều tra viên của hai cơ quan thông qua một số tiêu chí so sánh sau:
|
ĐTV
CQĐT CAND |
ĐTV
CQĐT VKSNDTC |
Vị
trí |
Là
biên chế ngành CAND: gồm CSĐT và ANĐT (điều 5 Luật điều tra HS 2015) |
Là
biên chế ngành KSND: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(cục 6) |
Thẩm
quyền |
Điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. |
Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về
tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức
thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi
hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân.(38 tội danh) |
Bổ
nhiệm |
Bổ nhiệm ĐTV trong hệ thống CQĐT thuộc lực lượng CAND: CQĐT
trong lực lượng CAND chia làm hai cấp là các CQĐT thuộc Bộ Công an và các
CQĐT địa phương (cấp tỉnh, huyện), nên có hai Hội đồng tuyển chọn ĐTV. |
Bổ nhiệm ĐTV trong CQĐT của VKSND tối
cao:Hội đồng tuyển chọn ĐTV do một Phó Viện trưởng VKSNDtối
caolàm Chủ tịch, đại diện Ủy ban kiểm sát VKSNDTC, đại diện lãnh đạo Viện kiểm sát Quân sự trung ương, CQĐT và Vụ Tổ chức - cán bộ VKSNDTC
là ủy viên. |
Chế độ lương, phụ cấp,… |
Căn cứ Quyết định số
91/2009/QĐ-TTg, ngày 06/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Tức là ở đây phải
tuân theo quy định trong ngành CAND |
Căn cứ Quyết định số
138/2005/QĐ-TTg "Về chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với Kiểm sát viên,
Điều tra viên và Kiểm tra viên ngành Kiểm sát". Tức ở đây phải tuân theo
quy định trong ngành KSND. |
Trình
độ chuyên môn |
Có
trình độ là đại học An ninh, Đại học cảnh sát |
Thường là cử nhân luật |
1. Thực tiễn hoạt động của điều tra viên
Không thể phủ nhận kể từ khi được thành
lập,trải qua nhiều sự thay đổi, Cơ quan điều tra của VKSND đạt được nhiều thành
tự nhất định trong việc thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm. Trải qua nhiều vụ án Cơ quan điều tra của VKSND đã
chứng minh được vai trò của mình là thanh bảo kiếm bảo vệ sự hoạt động nghiêm
minh trong sạch của các cơ quan tư pháp được thể hiện qua các số liệu sau:
Từ năm 2003 đến năm 2009, Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát đó tiếp nhận 2192 tin, trong đó có 450 tin về xâm phạm hoạt động
tư pháp; đó khởi tố 70 vụ/95 bị can (chủ yếu là các vụ án về tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp).
Từ năm 2010 đến nay, thực hiện Điều 4
Quy chế 1169/2010 ngày 19/8/2010 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tổ chức
và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKSNDTC đó
tiếp nhận tổng số 2677 thông tin vi phạm, tội phạm. Qua phân loại, xử lý xác
định 595 tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết. Trong đó, Cơ
quan điều tra Viện KSND tối cao khởi tố, thụ lý tổng số 169 vụ/ 206 bị can.
Trong đó, ngành Công an: 82 vụ/ 130 bị can (Chiếm 48,5 % số vụ; 63% số bị can);
ngành Kiểm sỏt: 10 vụ/ 13 bị can (Chiếm 5,9 % số vụ; 6,3 % số bị
can); ngành Tòa án: 33 vụ/28 bị can (Chiếm 19,5 % số vụ; 13,3% số bị
can); ngành Thi hành ỏn: 37 vụ/ 32 bị can (chiếm 21,9 % số vụ; 16 % số bị can);
ngành khác: 07 vụ/ 03 bị can (Chiếm 4,2 % số vụ; 1,4% số bị can). Về cơ
cấu tội phạm: Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp: 74 vụ /97 bị can; Tội
phạm về tham nhũng, chức vụ và tội phạm khác trong quá trình thực hiện cỏc hoạt
động tư pháp: 95 vụ/ 109 bị can (Tội phạm về tham nhũng, chức vụ: 86
vụ/103 bị can).
Quá trình khởi tố và thụ lý điều tra, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao luôn tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo việc điều
tra và lập hồ sơ xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Không có vụ án nào phải đình chỉ điều tra vì
bị can không phạm tội hoặc đề nghị truy tố mà Tòa án tuyên không phạm
tội. Không có vụ án nào bị hủy án để điều tra lại. Số vụ án phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ thấp. Trong đó đó phỏt hiện, điều tra, xử lý nhiều
vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận quan tâm; ví dụ như:
- Vụ án Ngô Thanh Phong, Nguyễn Văn Nên và Phạm Văn Út bị khởi tố về tội
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang do có hành vi sử dụng tiền tang vật
trong vụ án để gửi ngân hàng thu lợi hơn 1,2 tỷ đồng.
Ngày 24/6/2013, Tòa án Nhân dân tỉnh Tiền Giang đó tuyờn phạt bị cáo Ngô
Thanh Phong 03 năm tù giam; bị cáo Phạm Văn Út 01 năm tù giam về tội “Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Trong quá trình điều tra vụ án trên, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao còn
phát hiện một số hành vi vi phạm nhưng chưa được xử lý nên đã khởi tố 02 vụ án
có liên quan chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng
để điều tra giải quyết.
Cùng với việc chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm
hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra VKSNDTC đó đặc biệt chú trọng và tích cực
phát hiện, xác định nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm, tội phạm để kiến
nghị đến các cơ quan hữu quan có biện pháp xử lý và phòng ngừa. Trong thời gian
từ 2010 đến nay, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đó ban hành 198 bản kiến nghị đến các cơ quan
tư pháp Trung ương và địa phương để xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội phạm,
trong đó 107 kiến nghị đến ngành Công an (chiếm 54,1%), 41 kiến nghị đến ngành
Tòa án (chiếm 20,7%), 20 kiến nghị đến ngành Thi hành án dân sự (chiếm 10,1 %),
23 kiến nghị đến ngành Kiểm sát (chiếm 11,6 %)và 07 kiến nghị đến ngành khác
(chiếm 3,5%). Các kiến nghị đều được các cơ quan hữu quan tiếp thu và thực
hiện.[1]
Để đạt được những thành tựu này là cả một quá trình đấu tranh không mệt mỏi của
cả một hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung, và của cơ quan điều tra mà
trong đó vai trò chủ chốt phải kể đến sự tận tụy, nhiệt tình hết lòng của các
điều tra viên cơ quan điều tra VKSND
Tuy nhiên, chính thông qua hoạt động thực tiễn mà cũng bộc lộ nhiều điểm
còn hạn chế, tồn tại đến từ nhiều nguyên nhân như chính sách pháp luật, trình
độ chuyên môn, sự phối hợp của các cơ quan còn lỏng lẻo, hạn chế.
Về mặt pháp lý, các quy định về hoạt động, nhiệm vụ của điều tra viên VKSND
còn chưa cụ thể , rõ ràng, trong nhiều trường hợp còn có sự chồng chéo giữa
thẩm quyền giữa các cơ quan điều tra. Các quy định về việc tiếp nhận tin báo và
xử lý tố giác tội phạm cũng còn hạn chế đối với cơ quan điều tra, sự kết hợp
giữa các cơ quan khác còn chưa đem lại hiệu quả cao, trong nhiều trường hợp còn
mang tính hình thức.
Mặt khác, các quy định về bổ nhiệm, thi tuyển còn chưa chặt chẽ sẽ là lỗ
hổng trong việc thi tuyển, lựa chọn người tài để phục vụ cho cơ quan điều tra.
Số lượng và chất lượng của điều tra viên
cũng là điểm cần khắc phục. Đơn cử như: Về cán bộ lãnh đạo Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thời điểm này gồm có: Cục trưởng
và 5 Phó Cục trưởng; 5 Trưởng phòng, 8 Phó Trưởng phòng và 16 Đội Trưởng Đội
nghiệp vụ, trong đó có 33 Điều tra viên các cấp (15 Cao cấp, 16 Trung cấp và 2
Sơ cấp). Về trình độ có 2 Tiến sỹ luật, 7 Thạc sỹ luật, 28 Cử nhân luật, 5 Cử
nhân chuyên ngành khác, 8 đồng chí tốt nghiệp Học viện An ninh nhân dân và Học
viện Cảnh sát nhân dân. Từ đó đến
nay, Cơ quan điều tra VKSNDTC đã tiếp nhận tổng số 2677 thông tin vi phạm, tội
phạm, qua phân loại, xử lý xác định 595 tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm
quyền giải quyết và đã khởi tố, thụ lý tổng số 169 vụ/ 206 bị can.[2] Với số lượng công việc lớn nhưng số lượng điều tra viên
hạn chế đã gây khó khăn rất lớn cho quá trình thực thi nhiệm vụ của các điều
tra viên.Cùng với đó, sự ra đời của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014,
Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật tổ chức cơ quan điều tra năm 2015 đã phạm vi
thẩm quyền của cơ quan điều tra VKSNDTC đã mở rộng hơn rất nhiều. Về số lượng
tội phạm, trước đây CQĐT VKSNDTC chỉ tiến hành điều tra đối với một số loại tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, đến nay, có
thẩm quyền điều tra với 38 tội danh gồm tất cả các tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp quy định tại Chương XXIV BLHS năm 2015 và các tội phạm về tham nhũng,
chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định tại Chương XXIII BLHS năm
2015. Theo đó, chủ thể phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC cũng
tăng lên.
Không chỉ vậy trình độ, chất lượng của các điều tra viên hiện nay còn
hạn chế. Các điều tra viên chủ yếu là những kiểm sát viên dày dạn kinh nghiệm
trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhưng lại không
được đào tạo một cách bài bản về nghiệp vụ điều tra đây có thể xem là hạn chế
rất lớn của điều tra viên VKSND. Trong khi đó, các đối tượng của hoạt động điều
tra lại là những người công tác trong lĩnh vực tư pháp, hiểu biết pháp luật sâu
sắc, rất nhiều thủ đoạn để đối phó với CQĐT. Điều tra viên không trải qua một
quá trình đào tạo bài bản nhiều năm như điều tra viên của điều tra viên của
CQĐT khác. Nhiều điều tra viên khi tiến
hành công vụ còn nể nang, dễ bị tác động bởi sức ép bởi mối quan hệ của đối
tượng bị điều tra với những người có địa vị cao trong cơ quan nhà nước dẫn đến
kết quả điều tra chưa phản ánh đúng sự thật khách quan. Chế độ lương, phụ cấp đối với điều tra viên
chưa được đảm bảo dẫn đến không thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cho
CQĐT, không đảm bảo cho các điều tra viên yên tâm tham gia công tác.
Trên thực tiễn, các điều kiện để Điều tra viên VKSND thực hiện nhiệm vụ
của mình cũng còn hạn chế như việc trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ cho điều tra
viên. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ cũng có phần hạn chế hơn so với Điều tra viên của
CQĐT, những điều kiện để đảm bảo về lực lượng bảo đảm sức khỏe, tính mạng cho
những điều tra viên này cũng chưa thực sự được chú trọng. Mặt khác, CQĐT VKSND tối cao không có hệ thống nhà tạm
giữ, trại tạm giam, trại giam do mình quản lý do đó bị can vẫn phải gửi giam
giữ tại trại tạm giam của Bộ quốc phòng. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình điều tra của điều tra viên khi việc hỏi cung, đối chất, thực nghiệm điều
tra hay nhận dạng tiến hành một cách thụ động nhất là không thể đáp ứng những
trường hợp tiến hành hỏi cung đột xuất, nhiều trường hợp không thể đảm bảo được
bí mật điều tra cũng như đảm bảo an toàn cho bị can, bị cáo. Nó chính là nền
tảng, căn cơ cho việc bị can, bị cáo bị bức cung, nhục hình, mớm cung,… các vi
phạm nghiêm trọng khác trong việc điều tra như quản lí lỏng lẻo, giúp đỡ phạm
nhân bỏ trốn,..
Hơn nữa, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước cần có sự chế ước, giám
sát giữa các cơ quan quyền lực, tuy nhiên trên thực tế khi thực hiện hoạt động
của mình, các điều tra viên còn bị vấp phải nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức
của người hành nghề, còn xảy ra vấn đề vi phạm pháp luật, tham nhũng trong khi
thực hiện nhiệm vụ của mình mà chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ từ các cơ quan
khác, khiến hoạt động của điều tra viên vẫn chưa thực sự hiệu quả cao.
2. Kiến nghị khắc phục hạn chế
Để nâng cao hiệu quả
hoạt động cũng như phát huy tối đa toàn lực của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao nói chung và Điều tra viên của VKSND nói riêng cần phải khắc
phục những điểm còn hạn chế trên tất cả các mặt:
Thứ nhất, tạo sự thống nhất và các chế định
pháp lý hoàn chỉnh để là nền tảng lý luận vững chắc để có thể tiến hành hoạt
động của Điều tra viên trên thực tế. Cần có những quy định cụ thể chi tiết hơn
cũng như củng cố thêm về thẩm quyền và các điều kiện hỗ trợ cho Cơ quan điều
tra VKSND để đảm bảo điều kiện thực hiện trên thực tế. Mặt khác trên con đường
cải cách tư pháp cũng cần cân nhắc đến những yếu tố xung quanh như sự quản lí
trại giam, cơ chế giám sát để có sự điều chỉnh phù hợp hơn với xã hội, vừa
không làm mất đi tính độc lập của các cơ quan mà vẫn có sự giám sát, điều chỉnh
từ các cơ quan khác tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc các hoàn cảnh không
khách quan khác. CQĐT VKSNDTC cần
được tổ chức lại theo mô hình hiệu quả hơn trong đó CQĐT được tổ chức
tập trung, thống nhất ở VKSND tối cao và có nhiều hơn các thường trực CQĐT ở
các tỉnh, thành phố, để vừa bảo đảm việc phát hiện và phân loại, xử lý thông tin
tội phạm được kịp thời, chính xác; việc điều tra xử lý tội phạm đảm bảo thời
hạn tố tụng, phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống VKSND, vừa bảo đảm hoạt
động độc lập, chỉ huy thống nhất của Thủ trưởng CQĐT và chỉ đạo của Viện trưởng
VKSND tối cao. Lực lượng điều tra viên của VKSNDTC cần được tăng cường số lượng
và phân bổ đều về các khu vực, địa phương để kịp thời phát hiện, điều tra xử lý
trong phạm vi thẩm quyền các tội phạm tư pháp, tham nhũng tại các đơn vị hành
chính trên cả nước.
Thứ hai, Đội ngũ Điều tra viên cần được bổ sung về số
lượng để có thể đảm bảo nguồn nhân lực cần thiết cho thực hiện
nhiệm vụ đặc thù phức tạp. Cần phải thay đổi chính sách thu hút
cũng như đào tạo nhân lực chất lượng cao cho CQĐT VKSND. Chế độ lương,
phụ cấp đối với điều tra viên cần được cải thiện để thu hút nguồn
nhân lực chất lượng. Để làm được điều đó, cần phải làm cho toàn thể
xã hội hiểu được vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ nhà
nước, xã hội chủ nghĩa, quyền con người và quyền công dân; có như
vậy mới thu hút được sức dân tạo nguồn tài chính hợp lý cho ngành.
Thứ ba, nâng cao trình độ
khả năng của điều tra viên bằng cách xây dựng những chương trình đào tạo
nghiệp vụ điều tra đặc thù phù hợp cho cán bộ điều tra ngành kiểm
sát nhân dân bởi nhiệm vụ đối với các tội phạm đặc thù của chúng
ta. Đồng thời điều tra viên phải được đào tạo bài bản để có sự nhận thức đầy
đủ, đúng đắn các quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực, có bản lĩnh chính
trị, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm điều tra mới đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm tư pháp.
Thứ tư, đẩy mạnh sự phối
hợp giữa các Viện kiểm sát các cấp trong ngành cũng như sự phối
hợp hoạt động liên ngành với các cơ quan khác nhằm nâng cao khả năng
phát hiện, điều tra và xử lý kịp tội phạm. Do lực lượng của CQĐT
VKSNDTC còn mỏng và yếu nên việc phối hợp trong ngành và liên ngành
cũng là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xử lý các tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và các tội phạm tham nhũng chức vụ
trong hoạt động tư pháp. Bởi đây là những tội phạm đặc thù, khó
phát hiện, để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, CQĐT VKSNDTC
cần có sự giúp đỡ của toàn thể ngành và các cơ quan khác.
Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng
quan trọng và được ví như “quyền công tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể
bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu không có hoạt
động điều tra trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế
và đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp nói riêng thì Cơ quan điều tra VKSNDTC ngày càng phải được củng cố,
tăng cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và
đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời với đó Điều tra
viên càng phải nỗ lực nâng cao nghệp vụ, hoàn thành trọng trách của mình để
xứng đáng với lòng tin yêu và nhiệm vụ mà nhân dân đã giao phó. Củng cố lòng
tin của nhân dân vào nhà nước,góp phần xây dựng một nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh.
1.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
2.
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015
3.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2015
4.
Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ,
công cụ hỗ trợ năm 2017
5.
Pháp lệnh về quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ, công cụ hỗ trợ năm 2011
6.
Tập bài giảng Lý luận chung về VKS và công
tác kiểm sát – Trường ĐHKSHN
7.
Giáo trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát tập 1- Trường ĐHKSHN - 2017
8.
Bài viết “Cơ quan điều tra VKSNDTC 55 năm
xây dựng và trưởng thành” của tác giả Vũ Đăng Khoa, Kiểm sát viên, VKSNDTC, Thủ
trưởng CQĐT VKSNDTC, TCKS số 8/2017
9.
Bài viết “Đổi mới tổ chức, hoạt động của
CQĐT VKSNDTC đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả TS.
Nguyễn Hải Phong, Phó Viện trưởng thường trực VKSNDTC, TCKS số 8/2017.
10. Bài viết “Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao theo
yêu cầu cải cách tư pháp”- TS
Nguyễn Thị Quỳnh Chi, ngày 12/11/2014
11. Tài
liệu Hội thảo “ Công tác điều tra của CQĐT VKSND” – TS Nguyễn Xuân Hưởng
12. http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/148?idMenu=120
13. http://www.kiemsat.vn/dieu-tra-vien-vien-kiem-sat-nhan-dan-toi-cao.html
MỤC LỤC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA VIÊN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỐI CAO
4. Sự khác biệt giữa Điều tra viên của VKSND và Điều tra viên của
CQĐT
1. Thực tiễn hoạt động của điều tra viên
2. Kiến nghị khắc phục hạn chế