Tình huống 1: Mốc giới phân chia thửa đất nhà ông A và bà B ở hai
đầu là hai cọc đá được chôn từ 20 năm nay. Năm 2006, khi xây chuồng lợn, ông A
đã để lại 50cm đất cách mốc giới và dự định sau này sẽ làm đường ống thoát nước
chạy dọc theo. Nay bà B cho san nền xây bếp sát với chuồng lợn nhà ông A, chỉ
cách 30 cm. Ông A yêu cầu bà B dừng xây dựng để kiểm tra mốc giới. Qua kiểm
tra, thấy bà B xây dựng lấn sang phần đất nhà Ông 20 cm nên hai bên xảy ra
tranh chấp, mâu thuẫn. Nếu
được giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông A và bà B là mẫu thuẫn về mốc giới ngăn cách các bất
động sản
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2017 quy định mốc giới ngăn cách các bất động sản như sau:
“1. Chủ sở hữu bất
động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần
đất thuộc quyền sử dụng của mình.
2. Các chủ sở hữu
bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào,
trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất
động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.
Trường hợp mốc
giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất
động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở hữu chung, chi phí để
xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; nếu chủ sở hữu
bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng
cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn phải dỡ bỏ.
3. Đối với mốc
giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ,
lỗ thông khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ trường hợp được chủ sở
hữu bất động sản liền kề đồng ý.
Trường hợp nhà xây
riêng biệt nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu cũng chỉ được đục tường,
đặt kết cấu xây dựng đến giới hạn ngăn cách tường của mình.
Đối với cây là mốc
giới chung, các bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu được từ cây được chia
đều, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
3.
Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được
phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2017 quy định Mốc giới ngăn cách các bất động sản. Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách
nhiệm của mỗi bên trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu
thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Hòa giải viên cần nêu truyền
thống tốt
đẹp về tình làng nghĩa xóm, thuyết phục hai bên không
để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị bà B dừng ngay việc xây dựng để các
bên tiến hành hòa giải. Hai bên cần có nghĩa vụ tôn trọng mốc
giới phân chia thửa đất nhà ông A và bà B là ở hai đầu hai cọc đá được chôn từ
20 năm nay.
- Trong trường hợp không đạt
được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 2: Nhà ông Minh liền kề với nhà ông Chiến. Gần phần
đất giáp ranh giữa hai nhà, ông Minh trồng 02 cây nhãn. Một cây có nhiều lá
rụng, đọng lại trên mái nhà và nhiều cành ngả sang đất nhà ông Chiến làm hư
hỏng mái ngói. Một cây bị nghiêng, gần bật gốc, có nguy cơ đổ vào nhà ông
Chiến. Nhiều lần, ông Chiến đề nghị ông Minh chặt các cành vươn sang đất nhà
mình và đốn cây nhãn bị nghiêng để tránh cây đổ nhưng ông Minh không đồng ý.
Hai bên nhiều lần to tiếng gây căng thẳng, làm mất trật tự khối xóm. Hàng xóm
đã nhiều lần khuyên can nhưng không được, xung đột, mâu thuẫn có nguy cơ gia
tăng cao. Nếu được phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn là do cây nhãn nhà ông Minh có nguy cơ
bật gốc đe dọa đổ vào nhà ông Chiến.
2. Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật dân sự năm 2015
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017 tại Khoản 2 Điều 175 quy định về
ranh giới giữa các bất động sản: “2. Người sử dụng đất được sử dụng không
gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với
quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của
người khác.
Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc
khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã
được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt,
tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
-
Khoản 1 Điều 177 Bộ luật dân sự 2015 quy
định về Bảo đảm an toàn trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây
thiệt hại: “1. Trường hợp cây cối, công trình xây
dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu
tài sản thực hiện ngay các biện pháp khắc phục, chặt cây, sửa chữa hoặc dỡ bỏ
công trình xây dựng đó theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung
quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nếu không tự nguyện
thực hiện thì chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh có quyền yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Chi phí chặt cây, phá dỡ do
chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng chịu.”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được
phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định của
Bộ luật dân sự năm 2015 tại Khoản 2
Điều 175 quy định về ranh giới giữa các
bất động sản và Khoản 1 Điều 177 quy
định về bảo đảm an toàn trong trường hợp cây cối, công trình có nguy cơ gây
thiệt hại để phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mình trong vụ việc để các bên thỏa thuận việc giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm,
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, không nên to tiếng
làm mất trật tự khối xóm. Đề nghị ông Minh chặt các cành cây vươn sang đất nhà
ông Chiến và đề nghị chặt ngay cây Nhãn có nguy cơ bật gốc để tránh cây đổ sang
nhà ông Chiến. Trường hợp ông Minh không đồng ý, ông Chiến có quyền yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Ông Minh phải chịu chi
phí chặt cây.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 3: Nhà bà A có khu đất liền
kề nhà bà H. Trước khi xây dựng nhà, bà A đã thuê công ty đến đo đạc, thiết kế
và hoàn tất các thủ tục xin phép xây dựng. Do diện tích hạn chế nên bà A xây
hết phần diện tích thuộc quyền sử dụng. Khi xây đến tầng 2, nhà bà H phản đối
với lý do cửa sổ nhà bà A mở nhìn sang phần đất nhà bà, Khi mở cửa sổ sẽ lấn
sang phần ngõ đi riêng của nhà bà H. Bà A cho rằng hồ sơ xây dựng nhà đã được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với quy định của pháp luật, nên lý lẽ
bà H đưa ra không thuyết phục. Hai bên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được
phân công hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu
thuẫn: Mâu
thuẫn giữa bà A và bà H là nhà bà A khi mở cửa sổ sẽ lấn sang phần ngõ đi riêng
của gia đình nhà bà H.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 178 Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017 quy định
về trổ cửa nhìn sang bất động sản liền kề: “1. Chủ sở hữu nhà
chỉ được trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện và đường
đi chung theo quy định của pháp luật về xây dựng. Cụ thể: Điều 7 Quy chuẩn xây dựng Việt Nam ban hành kèm theo Quyết
định số 682/BXD-CSXD ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng
Xây dựng, thì chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa sổ, lỗ thông hơi, lỗ thông gió
theo quy định sau: “Từ tầng hai (lầu một)
trở lên, trên các bức tường cách ranh giới đất với công trình bên cạnh dưới 2m
không được mở cửa đi, cửa sổ, lỗ thông hơi (chỉ được mở cửa đi, cửa sổ, lỗ
thông hơi trên các bức tường cách ranh giới đất với nhà bên cạnh ít nhất 2m).
Khi mở cửa cần có biện pháp tránh tia nhìn trực tiếp vào nội thất nhà bên cạnh
(chắn tầm nhìn hoặc bố trí so le các cửa sổ giữa hai nhà);
-
Mép ngoài cùng của ban công trông sang nhà hàng xóm phải cách ranh giới đất
giữa hai nhà ít nhất là 2m.
-
Trong trường hợp người có quyền sử dụng lô đất liền kề có thỏa thuận thì trên
bức tường xây cách ranh giới đất dưới 2m có thể mở các lỗ cửa nhưng phải đề
phòng trường hợp lửa cháy lan giữa hai nhà. Các
lỗ cửa này phải là cửa cố định (chớp lật hoặc lắp chết kính) có mép ngoài cùng
cao hơn mặt sàn ít nhất là 2m. Khi thỏa thuận bị hủy bỏ; việc bít các lỗ cửa
này là mặc nhiên, không phải thương lượng, xét xử.”
2. Mặt dưới mái che trên cửa ra vào, mặt dưới mái che
cửa sổ quay ra đường đi chung phải cách mặt đất từ 2,5 mét trở lên.”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được
phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định của
Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 178
quy định về trổ cửa nhìn sang bất động
sản liền kề để các bên
hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các
bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện
thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm,
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị bà H thực
hiện việc trổ cửa sổ nhìn sang nhà bà H phải theo quy định của pháp luật
về xây dựng.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 4: Một tối đi
đường, ông A nhặt được chiếc túi, trong đó có 01 máy tính xách tay, 05 triệu
đồng và một số giấy tờ tùy thân của ông B nhưng không rõ địa chỉ. Ông A đã liên
hệ với cán bộ xã để thông báo cho người bị mất biết đến nhận, đồng thời mang
tiền, máy tính về nhà; giao máy tính cho con trai là M sử dụng, do vô tình M đã
làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và hỏng máy tính. Ba ngày sau, ông B đến nhà
ông A xin nhận lại tài sản vì hôm đó do say rượu lên đánh rơi mà không biết.
Ông A đồng ý trả lại 5 triệu và giấy tờ tùy thân cho ông B, riêng máy tính do
đã chập điện và hỏng lên ông A xin phép ông B thứ lỗi và chấp nhận đền bù 03
triệu đồng. Ông B không đồng ý vì máy tính đó ông mới mua giá 12 triệu đồng, ít
nhất ông A phải bồi thường 8 triệu, do không thống nhất được mức bồi thường nên
hai bên đã lời qua tiếng lại gây mâu thuẫn, tranh chấp. Nếu được giao hòa giải
vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu
thuẫn: Mâu
thuẫn giữa ông A và ông B là do ông A nhặt được máy tính của ông B giao cho con
trai là M sử dụng, do vô tình M làm đổ chai nước dẫn đến chập điện và hỏng máy
tính. Hai ông không thỏa thuận được mức bồi thường máy tính bị hỏng.
2. Căn cứ pháp lý:
“1. Người phát hiện tài sản
do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ
quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa
chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ
sở hữu biết mà nhận lại.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc
công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả
xác định chủ sở hữu.
2. Sau 01 năm, kể từ ngày
thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác
định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với
tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị
đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó
theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về
Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị
đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định
của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài
sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
230 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do
người khác đánh rơi, bỏ quên để các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp của người Việt
- Trong trường hợp không
đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 5: Khi phát hiện có con trâu
lạc vào đàn trâu của nhà, ông An đã báo cho cán bộ xã biết để thông báo trên
loa truyền thanh của xã, rồi đưa trâu về nhà nuôi. Hai tháng sau, ông Bình là
chủ của con trâu bị thất lạc đã đến gặp ông An để xin lại con trâu. Ông An đồng
ý trả lại trâu và đề nghị ông Bình phải thanh toán tiền công và các chi phí
nuôi giữ con trâu trong hai tháng. Ông Bình không nhất trí thanh toán tiền công
và trả chi phí nuôi giữ trâu nên hai bên phát sinh mâu thuẫn. Nếu được phân
công hòa giải vụ việc trên, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ông An và
ông Bình là việc thanh toán tiền công và các chi phí nuôi giữ con trâu của nhà
ông Bình bị thất lạc do ông An nuôi giữ.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc: “1. Người bắt được
gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 06
tháng, kể từ ngày thông báo công khai hoặc sau 01 năm đối với gia súc thả rông
theo tập quán thì quyền sở hữu đối với gia súc và số gia súc được sinh ra trong
thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia súc.
2. Trường hợp chủ sở hữu
được nhận lại gia súc bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các
chi phí khác cho người bắt được gia súc. Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị
thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa
số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra và phải bồi thường thiệt
hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định của
Điều 231 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia
súc bị thất lạc để các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp ở địa phương, gia đình
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị ông Bình
thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác để đảm bảo quyền lợi mà ông
An đã bỏ các chi phí nuôi giữ con trâu của ông Bình
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống số 6: Bà Tú nuôi một đàn 40 con vịt. Một hôm lùa đàn
vịt về, bà thấy có 20 con vịt khác lạc vào đàn vịt của mình. Bà Tú đi hỏi các
gia đình gần đó và báo với cán bộ xã để thông báo trên loa truyền thanh xã
nhưng mãi không có ai đến nhận nên bà đành phải nuôi đàn vịt lạc đó. Mười ngày
sau, ông Hoàng cuối thôn đến xin nhận lại 20 con vịt bị thất lạc. Sau khi nêu
điểm đặc trưng của vịt nhà ông Hoàng, thấy đúng, bà Tú đồng ý trả lại vịt. Sau
khi nhận vịt, ông Hoàng yêu cầu bà Tú trả lại số trứng mà 20 con vịt của ông đã
đẻ trong 10 ngày. Bà Tú không đồng ý vì mặc dù vịt có đẻ nhưng bà phải mất công
nuôi và cho ăn nên bù trừ đi là vừa đủ, ông nhận vịt về, bà nhận trứng nhưng
ông Hoàng không đồng ý dẫn đến cãi vã, mâu thuẫn. Nếu được giao hòa giải vụ
việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa bà Tú và ông Hoàng là việc thanh
toán tiền công và các chi phí do nuôi giữ 20 con vịt bị thất lạc của nhà ông Hoàng do bà Tú bắt được.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 232 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc: “1. Trường hợp gia
cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải
thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ
ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với
gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người
bắt được gia cầm.
2. Trường hợp chủ sở hữu
được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và chi
phí khác cho người bắt được gia cầm. Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất
lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi
thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định của
Điều 232 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với gia
cầm bị thất lạc để các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Đề nghị ông Hoàng
đồng ý với đề nghị của bà Tú trả vịt và thanh toán tiền công nuôi giữ và các
chi phí bằng số trứng mà 20 con vịt của ông đã đẻ trong 10
ngày để đảm bảo quyền lợi mà
bà Tú đã bỏ các chi phí nuôi giữ 20 con vịt đẻ của ông Hoàng.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 7: Nhà ông
Minh và ông Huân cùng đấu thầu hai đầm sát nhau để nuôi trồng thủy sản. Đầm nhà
ông Minh chuyên nuôi tôm, đầm nhà ông Huân chuyên nuôi cá, mọi người trong làng
đều biết việc này, tuy nhiên, sau trận mưa rào, nước lụt, tôm từ đầm nhà ông
Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân. Thấy đầm nhà mình tự dưng rất nhiều tôm,
ông Huân đã cất vó, bắt tôm đem bán, ông Minh biết chuyện đã yêu cầu ông Huân
trả lại số tôm đã bắt. Ông Huân không đồng ý vì “cá vào ao ai người đó hưởng”,
“tôm ở ao ông thì ông bắt” dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Nếu được phân công hòa
giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa Nhà ông Minh và ông Huân là mâu
thuẫn tôm từ đầm nhà ông Minh nhảy tràn sang đầm nhà ông Huân do bị mưa rào,
nước lụt
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước: “Khi
vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người
khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trường hợp vật nuôi dưới
nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của
mình thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết
mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến
nhận thì quyền sở hữu vật nuôi dưới nước đó thuộc về người có ruộng, ao, hồ.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định của
Điều 233 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về xác lập quyền sở hữu đối với vật
nuôi dưới nước để các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị
ông Huân phải trả lại số tôm đã bắt do số tôm từ đầm của nhà ông Minh nhảy tràn
sang đầm nhà ông Huân với số tôm đã đem bán cần phải bồi thường.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống số 8: Nhà bà V và ông T là hai hộ
liền kề. Khi sửa nhà, bà V làm thêm mái tôn che mưa nhưng lại không làm đường
ống thoát nước. Mỗi khi trời mưa, nước từ mái tôn nhà bà V chảy tràn sang mái
nhà ông T gây thấm nước xuống các phòng bên dưới. Ông T nhiều lần yêu cầu bà V
phải làm đường ống thoát nước nhưng bà V không đồng ý vì cho rằng nhà ông T bị
thấm là do xử lý chống thấm trần nhà không tốt chứ không phải là do việc bà V
sửa nhà, vì vậy, hai bên đã xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Nếu được giao hòa giải
vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu
thuẫn: Mâu
thuẫn giữa hộ nhà bà V và hộ nhà ông T là mâu thuẫn trong
việc thoát nước mưa do khi sửa nhà, bà V làm thêm
mái tôn che mưa nhưng lại không làm đường ống thoát nước. Mỗi khi trời mưa,
nước từ mái tôn nhà bà V chảy tràn sang mái nhà ông T gây thấm nước xuống các
phòng bên dưới.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 250 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể ngày
01/01/2017 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước mưa: “Chủ sở hữu nhà,
công trình xây dựng khác phải lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái
nhà, công trình xây dựng của mình không được chảy xuống bất động sản của chủ sở
hữu bất động sản liền kề.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
250 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát
nước mưa để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và
các
bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện
thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị
nhà bà V phải thực hiện lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà
không được chảy xuống mái nhà ông T
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống số 9: Hộ gia
đình bà Mỵ nuôi rất nhiều lợn nhưng hệ thống tiêu thoát nước, khí thải không
đảm bảo, nước và khí thải được thải thẳng trực tiếp vào đường thoát nước của
xóm làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường và những hộ xung quanh. Dù đã được
nhắc nhở nhiều lần nhưng hộ bà My vẫn không khắc phục, thậm chí tình trạng ô
nhiễm ngày càng nặng hơn, gây bức xúc, ảnh hưởng đến đời sống của cộng đồng,
nhất là vào những hôm trời nắng nóng hoặc mưa to, nước tràn lên đường. Nếu được
giao hòa giải vụ việc, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuẫn do gia đình bà Mỵ nuôi rất nhiều lợn
nhưng hệ thống tiêu thoát nước, khí thải không đảm bảo, nước và khí thải được
thải thẳng trực tiếp vào đường thoát nước của xóm làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi
trường và những hộ xung quanh.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 251 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải: “Chủ
sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước để
đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang bất động
sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi sinh hoạt
công cộng.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
251 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát
nước thải.
-
Hòa giải viên cần thuyết phục đề nghị gia đình bà Mỵ phải có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ trong việc thoát nước thải, khí thải để không làm ảnh hưởng đến
vệ sinh môi trường và những hộ xung quanh.
-
Trong trường hợp gia đình bà Mỵ không thực hiện, đề nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 10: Thửa đất nhà ông M bên trong thửa
đất nhà ông D. Để thoát nước thải, hộ ông M phải bắc ống dẫn nước qua thửa đất
nhà ông D. Sau khi mua lại căn nhà của ông D, bà C phá bỏ ngôi nhà cũ để xây
nhà mới. Do muốn xây nhà to hơn, bà C yêu cầu ông M chuyển ống dẫn nước sang
hướng khác, không đi qua đất nhà bà. Ông M cho rằng đường ống dẫn nước thải
hiện nay là tiện nhất, nếu bà C không cho đi qua đất nhà bà thì ông không biết
cho nước thải đi đâu. Ông M đề nghị bà C tiếp tục cho phép ông đặt đường ống
dẫn nước qua đất nhà bà và để không ảnh hưởng đến ngôi nhà, ông đồng ý sẽ tiến
hành di chuyển đường ống sang sát mép tường xây một cách cẩn thận, không để ống
dẫn nước hư hỏng làm ảnh hưởng nhưng bà C không đồng ý. Hai bên lời qua tiếng
lại, ai cũng giữ quan điểm của mình, sau đó, ông M đã liên hệ với Tổ hòa giải
của xóm đề nghị can thiệp, giúp đỡ. Được giao hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ
hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu thuấn giữa ông M và bà C là do đường ống dẫn
nước thải của nhà ông M qua đất nhà bà C là tiện nhất và duy nhất vì không biết
cho nước thải đi đâu nhưng bà C không cho đi qua đất nhà bà và yêu cầu phải
chuyển sang hướng khác.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 252 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề: “Trường
hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua
một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành
một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước
chảy.
Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức
thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt
đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên
chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động
sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi
thường thiệt hại.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
252 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản
liền kề để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và
các
bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện
thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm và
thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị bà
C tiếp tục cho phép ông M đặt đường ống dẫn nước qua đất nhà bà và tiến hành di
chuyển đường ống sang sát mép tường xây của nhà bà C, không để ống dẫn nước hư
hỏng làm ảnh hưởng nhà bà C vì đường thoát nước của nhà ông M qua đất nhà bà C
là tiện nhất và nếu không cho đi qua đất nhà bà
C thì ông M không biết cho nước thải đi đâu.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 11: Thửa rộng của hai nhà ông An và bà Lan ở cạnh
nhau. Do ruộng nhà ông An nằm cao hơn ruộng nhà bà Lan, nên mỗi lần có nước
thủy lợi về, ông An phải be đắp bờ cho nước không chảy xuống ruộng nhà bà Lan
để không làm mất màu của đất. Mỗi lần be bờ, đắp đất như vậy, ruộng nhà bà Lan
nhận được một lượng nước rất ít, không bảo đảm canh tác. Bà Lan đã nhắc nhở, đề
nghị ông An không be bờ, đắp đất để ruộng bà còn lấy nước nhưng ông An không
nghe. Mỗi lần nước thủy lợi về là một lần hai bên xích mích, cãi vã nhau, nếu
để kéo dài hậu quả sẽ khó lường. Bà Lan đã liên hệ với Tổ hòa giải đề nghị giúp
đỡ bà. Được giao tiến hành hòa giải vụ việc này, ông/bà sẽ hòa giải như thế
nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn: Mâu
thuẫn giữa ông An và bà Lan là do ông An be đắp bờ cho nước không chảy xuống
ruộng nhà bà Lan, ruộng nhà bà Lan được một lượng nước rất ít, không đảm bảo
canh tác.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 253 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác: “Người
có quyền sử dụng đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước, có quyền
yêu cầu những người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn nước thích
hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu
cầu đó; nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử dụng đất xung
quanh thì phải bồi thường.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
253 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh
tác để phân tích các bên hiểu rõ về quyền lợi,
trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm “ở
nhà có láng giềng nhà, ở đồng có láng giềng đồng” và thuyết phục hai bên
không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Đề nghị ông An để cho bà Lan
một lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới ruộng. Đề nghị Bà Lan khi
sử dụng lối dẫn nước phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến ruộng nhà ông An, nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 12: Nhà ông Tý và ông Mão ở
cạnh nhau, ông Mão ở trong, ông Tý ở ngoài. Hai hộ sử dụng lối đi chung và đây
cũng là lối đi duy nhất vào nhà ông Mão. Tuất (là con ông Mão) thường tụ tập
bạn bè ăn nhậu tại nhà vào mỗi chiều tối thứ bảy. Mỗi lần ăn nhậu là một lần ồn
ào, náo nhiệt, xe cộ để lộn xộn, ngăn cả lối đi. Ông Tý nhiều lần nhắc nhở Tuất
và ông Mão về việc này để không làm ảnh hưởng đến khu xóm, nếu không ông sẽ rào
đường, không cho đi chung ngõ nữa. Tuy nhiên, tình trạng không có chuyển biến
tích cực, thậm chí Tuất còn thách thức ông Tý. Bực mình, cứ mỗi chiều tối thứ
bảy ông Tý kê bàn ghế ra ngõ ngồi uống nước, không cho để xe cộ và làm ảnh
hưởng đến việc đi lại của hộ gia đình ông Mão. Mâu thuẫn, xích mích giữa hai hộ
ngày càng gia tăng và có biểu hiện phức tạp. Được giao hòa giải vụ việc trên,
ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu
thuẫn: Mâu
thuẫn giữa nhà ông Tý và nhà ông Mão là do mâu thuẫn về lối đi chung của hai
gia đình
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 254 Bộ luật dân sự năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về Quyền về lối đi qua: “1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc
bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi
ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho
mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động
sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm
cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là
ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản
hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng
quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Vị trí, giới hạn chiều
dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện
cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì
có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
3. Trường hợp bất động sản
được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi
chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2
Điều này mà không có đền bù.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
254 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Quyền về lối đi qua để phân tích các
bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong vụ việc và
các
bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện
thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Thuyết
phục anh Tuất con ông Mão không nên gây ồn
ào, để xe
cộ không được ngăn
cản
lối đi chung và không
làm ảnh hưởng đến khu xóm. Đồng thời, đề nghị ông Tý không kê
bàn ghế ra ngõ,
không làm ảnh hưởng đến việc đi lại của hộ gia đình
ông Mão vì đây là lối đi chung
các bên phải tôn trọng.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình huống 13: Nhà ông Dậu và ông Sửu ở
cạnh nhau, nhà ông Dậu ở
ngoài, nhà ông Sửu ở trong. Khi ông Sửu làm nhà, ông Dậu đã đồng ý để đường dây
tải điện và đường dây điện thoại nhà ông Sửu được đi qua nhà mình với điều kiện
không làm mất mỹ quan, ảnh hưởng đến an toàn của gia đình ông Dậu. Nay ông Sửu
mắc truyền hình cáp, tiện thể ông muốn cải tạo lại đường dây để bảo đảm an
toàn. Lúc này ông Dậu đề nghị ông Sửu phải di chuyển đường dây ra hướng khác,
không được cho đường dây đi qua nhà ông như trước nữa nhưng ông Sửu không đồng
ý, vì vậy hai bên đã lời qua tiếng lại, gây xích mích, không ai chịu ai, xung
đột, mâu thuẫn giữa hai nhà có nguy cơ nảy sinh. Được giao hòa giải vụ việc
trên, ông/bà sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu
thuẫn: Nhà ông Dậu và ông Sửu mâu thuẫn là do đường
dây tải điện và đường dây điện thoại nhà ông Sửu đi qua nhà ông Dậu.
2. Căn cứ pháp lý:
Điều 255 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2017 quy định về mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động
sản khác:
“Chủ sở hữu bất động sản có quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên
lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu khác một cách hợp lý, nhưng phải bảo
đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở hữu đó; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường.”
3. Hướng giải quyết:
-
Là hòa giải viên khi được phân công tiến hành hòa giải trên cơ
sở quy định Điều
255 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mắc đường dây tải điện, thông tin liên
lạc qua bất động sản khác để phân tích các bên
hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ việc và các
bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện
thỏa thuận đó.
-
Hòa giải viên cần nêu truyền thống tốt đẹp về tình làng nghĩa xóm
và thuyết phục hai bên không để xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột. Thuyết
phục ông Dậu để cho ông Sửu mắc đường cáp truyền hình, đường dây tải điện và
thong tin liên lạc một cách hợp lý. Đề nghị khi mắc đường dây, ông Sửu phải bảo đảm an toàn và không được làm ảnh
hưởng, thiệt hại đến nhà ông Dậu.
-
Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tình
huống 14: Là hàng xóm thân thiết nhiều năm, ông B có nhu cầu được
mua con bò cái của ông A để nhân giống với giá 10 triệu đồng. Hai bên đã thống
nhất việc mua bán, ông B trao đủ 10 triệu cho ông A, riêng việc nhận bò, hai
bên thống nhất hai hôm sau sẽ giao nhận để được ngày tốt. Hôm sau, ông A nghĩ
lại thấy bán bò giá đó là thấp, lại biết được con bò cái đó đang có chửa nên
tiếc không muốn bán. Vì thế, hôm ông B sang nhận bò, ông A đã không giao mà đề
nghị ông B chấm dứt việc mua bán bò, ông A sẽ trả lại 10 triệu đồng cho ông B.
Vì muốn có được con bò tốt, ông B đã không đồng ý do việc mua bán đã hoàn
thành, tiền ông đã trả, chỉ còn mỗi việc giao nhận bò nên không có lý do gì để
chấm dứt việc mua bán cả. Vì thế hai bên đã xảy ra tranh chấp, lời qua tiếng
lại.
Nếu được
phân công hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi ý trả lời:
1. Xác định nguyên phân mâu thuẫn:
Ông B
trao đủ 10 triệu cho ông A để mua bò cái nhân giống. Hôm ông B sang nhận bò, ông A đã không giao mà đề nghị
ông B chấm dứt việc mua bán bò, ông A sẽ trả lại 10 triệu đồng cho ông B vì ông
A nghĩ lại thấy bán bò giá đó là thấp, lại biết được con bò cái đó đang có chửa
nên tiếc không muốn bán.
2. Căn cứ pháp lý:
- Khoản 1, Điều 119 Bộ luật dân
sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể”
- Điều 430, Bộ luật dân sự năm 2015
quy định: “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển
quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”
- Khoản 1, Điều 434 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định: “Thời
hạn thực hiện hợp đồng mua bán do các bên thoả thuận. Bên bán phải giao tài sản
cho bên mua đúng thời hạn đã thoả thuận; bên bán chỉ được giao tài sản trước
hoặc sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý”.
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được
phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở các
quy của Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên.
Hòa giải viên cần phân tích để các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên
trong việc thực hiện hợp đồng mua bán tài sản để các bên thỏa thuận việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó.
- Thuyết
phục ông A thực hiện đún việc giao bò cái cho ông B như đã thỏa thuận ban đầu,
mặt khác có thể thuyết phục ông B là hàng xóm thân thiết nhiều năm trả thêm cho
ông A một khoản tiền nhỏ để cả hai bên cùng có lợi.
- Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải
viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Tình huống 15: Bà Quỳnh cho bà Nhàn thuê nhà để
kinh doanh tạp hóa. Theo nội dung hợp đồng thuê nhà đã được công chứng, giá
thuê nhà là 02 triệu đồng/1 tháng; tiền thuê được trả định kỳ 02 lần/1 năm (vào
ngày đầu tiên của tháng 12 và tháng 5), mỗi lần trả 12 triệu đồng; ngay sau khi
kí hợp đồng, phải trả trước 12 triệu đồng; thời hạn thuê là 05 năm, hết thời
hạn hai bên sẽ thỏa thuận lại việc cho thuê nhà. Sau khi thuê nhà được 01 năm,
trong lúc đang kinh doanh tốt thì bà Quỳnh đề nghị tăng giá thuê nhà lên 2,5
triệu đồng/tháng do nhà ông Thành đối diện cũng đang cho thuê với giá đó trong
khi diện tích và điều kiện kinh doanh không tốt bằng, nếu không bà Quỳnh sẽ
không cho thuê nhà nữa. Bà Nhàn không đồng tình vì thời hạn cho thuê chưa hết,
hợp đồng đã quy định rõ số tiền thuê, không có nội dung về việc điều chỉnh tăng
giá trong thời gian cho thuê. Hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp làm
ảnh hưởng đến việc kinh doanh của bà Nhàn. Nếu được phân công hòa giải vụ việc
này, ông (bà) sẽ hòa giải như thế nào?
Gợi
ý trả lời:
1. Xác định nguyên nhân mâu thuẫn:
Bà
Quỳnh đề nghị tăng giá thuê nhà, bà Nhàn không đồng tình vì thời hạn cho thuê chưa hết,
hợp đồng đã quy định rõ số tiền thuê, không có nội dung về việc điều chỉnh tăng
giá trong thời gian cho thuê.
2. Căn cứ pháp lý:
- Điều 472 Bộ luật dân sự 2015 quy
định: “Hợp
đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài
sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê.
Hợp
đồng thuê nhà ở, hợp đồng thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác được thực hiện
theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và quy định khác của pháp luật có
liên quan”.
- Khoản 1, khoản 2 Điều 129 Luật nhà ở năm 2014 quy
định:
“1. Bên cho thuê và bên thuê nhà ở được thỏa thuận về thời
hạn thuê, giá thuê và hình thức trả tiền thuê nhà theo định kỳ hoặc trả một
lần; trường hợp Nhà nước có quy định về giá thuê nhà ở thì các bên phải thực
hiện theo quy định đó.
2. Trường hợp chưa hết hạn hợp đồng thuê nhà ở mà bên cho thuê thực hiện
cải tạo nhà ở và được bên thuê đồng ý thì bên cho thuê được quyền điều chỉnh
giá thuê nhà ở. Giá thuê nhà ở mới do các bên thỏa thuận; trường hợp không thỏa
thuận được thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở và
phải bồi thường cho bên thuê theo quy định của pháp luật.”
- Khoản 2 Điều 132 Luật nhà ở năm 2014 quy định: “Bên cho thuê nhà ở có quyền đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Bên cho thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, nhà ở xã hội cho thuê không
đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không đúng điều kiện theo quy định của
Luật này;
b) Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên
mà không có lý do chính đáng;
c) Bên thuê sử dụng nhà ở không đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp
đồng;
d) Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê;
đ) Bên thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại nhà ở đang thuê mà không có
sự đồng ý của bên cho thuê;
e) Bên thuê làm mất trật tự, vệ sinh môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sinh hoạt của những người xung quanh đã được bên cho thuê nhà ở hoặc tổ trưởng
tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc lập biên bản đến lần
thứ ba mà vẫn không khắc phục;
g) Thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 129 của Luật này”
3. Hướng giải quyết:
- Là hòa giải viên khi được
phân công tiến hành hòa giải trên cơ sở quy định Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật nhà ở năm 2014 nêu trên. Hòa giải viên cần phân tích để bà Quỳnh hiểu việc đòi tăng giá thuê nhà do
nhà ông thành đối diện cũng đang cho thuê giá đó không thuộc một trong các
trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn. các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách
nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện
hợp đồng để
- Thuyết
phục bà Quỳnh thực hiện hợp đồng như ban đầu đã ký kết, mặt khác thuyết phục bà
Nhàn để không ảnh hưởng đến việc kinh doanh của bà có thể xem xét tăng một phần
giá tiền thuê nhà do trượt giá theo yêu cầu của bà Quỳnh. Hai bên cùng thương
lượng, thống nhất để giải quyết mâu thuẫn cùng nhau hợp tác làm ăn.
- Trong
trường hợp các bên không thỏa thuận việc giải quyết các
mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.