ĐỀ
BÀI
Anh A và chị B kết hôn năm 1996 trên cơ sở
hoàn toàn tự nguyện, có đăng kí kết hôn và sinh sống tại phường T quận Y thành
phố Hà Nội. Sau một thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn. Tháng
4/2005, anh A khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xin li hôn và giải quyết tranh chấp
về tài sản chung giữa vợ và chồng. Về tài sản chung, vợ chồng anh A và chị B có
một mảnh đất diện tích 100m2 tại quận N thành phố Hà Nội và vợ chồng có vay của
chị D 150 triệu đồng.
1. Xác định tư cách đương sự trong vụ án?
2. Xác định Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ việc trên và giải thích rõ tại sao?
BÀI
LÀM
Trước tiên, để giải quyết hai yêu cầu của
đề bài thì ta phải xác định được trong vụ việc nói trên có những quan hệ pháp
luật nào cần giải quyết. Do trong tình huống anh A khởi kiện ra Tòa án yêu cầu
xin ly hôn và giải quyết tranh chấp về tài sản chung giữa vợ và chồng nên sẽ có
hai quan hệ pháp luật cần giải quyết là quan hệ hôn nhân và quan hệ tài sản.
Căn cứ vào quy định tại Điều 163 BLTTDS và quy định tại điểm 3 chương I Nghị
quyết số 02/2006/NQ-HĐTP thì đây là trường hợp “nhiều quan hệ pháp luật có liên
quan” mà có thể giải quyết trong cùng một vụ án.
1.
Xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
thì đương sự là chủ thể không thể thiếu, tư cách đương sự được xác định sau khi
Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự. Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTDS 2004
thì: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Giả sử với tình huống bài
ra, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là anh A, chị B và
chị D đều có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, khi đó tư cách đương sự sẽ
được xác định như sau:
*Nguyên đơn: Theo quy định tại khoản 2
Điều 56 BLTTDS thì: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người
được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của
người đó bị xâm hại…”. Như vậy, để trở thành nguyên đơn trong một vụ án dân sự
thì phải đáp ứng đủ hai điều kiện sau: Một là, chủ thể này phải cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Hai là, chủ thể đó
phải gửi đơn khởi kiện tới Tòa và đơn đó được Tòa án thụ lý. Trong tình huống,
anh A khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xin ly hôn và giải quyết tranh chấp về tài
sản chung giữa vợ chồng, rõ ràng anh A hoàn toàn thỏa mãn các điều kiện trên.
Vì thế, anh A là nguyên đơn.
*Bị đơn: Theo khoản 3 Điều 56 BLTTDS,
"Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện..." Như
vậy, một người được xác định là bị đơn trong vụ án dân sự khi có hai đặc điểm
sau: Một là, phải là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền theo quy định của BLTTDS khởi kiện. Hai là, người đó được giải thiết là
có tranh chấp hay xâm phạm đến quyền lợi của nguyên đơn. Trong tình huống, chị
B chính là người mà anh A kiện yêu cầu ly hôn và giải quyết tranh chấp tài sản,
hoàn toàn thỏa mãn hai điều kiện trên. Do đó, chị B chính là bị đơn.
*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Theo khoản 4 Điều 56 BLTTDS, "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết
vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ ….". Như vậy,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là người không khởi kiện, không bị
kiện, nhưng việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Trong vụ án này, tuy chị D không phải là người khởi kiện, cũng không phải là
người bị kiện, nhưng anh A và chị B có vay của chị 150 triệu đồng, vì thế việc
hai anh chị ly hôn và phân chia tài sản chung có liên quan trực tiếp đến quyền
lợi, nghĩa vụ của chị D. Vì vậy, chị D chính là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự này.
2.
Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên? Giải thích rõ tại sao?
Để giải quyết yêu cầu này thì ta cần xác
đinh thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ:
Về thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa
án theo cấp: Do đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, chia tài sản khi ly hôn quy
định tại khoản 1 Điều 27 BLTTDS nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 33 BLTTDS,
Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh sẽ có thẩm
quyền giải quyết vụ án này.
Về thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa
án theo lãnh thổ:
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải
quyết vụ án dân sự được quy định tại Điều 35 BLTTDS. Về nguyên tắc, với những
tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về Tòa án nơi có
bất động sản. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong tình huống trên anh A khởi kiện
ra Tòa án yêu cầu xin ly hôn và giải quyết tranh chấp về tài sản chung vợ
chồng, trong khối tài sản chung đó có bất động sản là một mảnh đất diện tích
100m2 tại quận N thành phố Hà Nội, vậy thì trường hợp này có được coi là tranh
chấp về bất động sản hay không? Có thể hiểu, tranh chấp về bất động sản là
những tranh chấp có đối tượng là bất động sản. Trong tình huống bài ra, đúng là
anh A và chị B đang có tranh chấp về bất động sản nhưng phải khẳng định rằng,
do xuất phát từ yêu cầu ly hôn và phân chia tài sản chung vợ chồng nên mới dẫn
đến tranh chấp về bất động sản, đây chỉ là quan hệ pháp luật phụ phát sinh từ
quan hệ pháp luật hôn nhân, quan hệ pháp luật hôn nhân mới là quan hệ pháp luật
chính cần phải giải quyết. Chính vì thế, trong trường hợp này không thể áp dụng
điểm c khoản 1 Điều 35 BLTTDS mà thẩm quyền của vụ việc sẽ thuộc về Tòa án nơi
bị đơn cư trú (điểm a khoản 1 Điều 35) hoặc Tòa án nơi nguyên đơn cư trú nếu
như đương sự có sự thỏa thuận bằng văn bản (điểm b khoản 1 Điều 35).
Căn cứ theo quy định tại Điều 52 BLDS năm
2005 và Điều 12 Luật cư trú năm 2004 thì nơi cư trú của công dân có thể là nơi
tạm trú hoặc nơi thường trú. Do đó ta có thể xác định anh A và chị B cùng cư
trú ở quận Y thành phố Hà Nội. Như vậy, dù áp dụng theo điểm a hay điểm b khoản
1 Điều 35 BLTTDS thì thẩm quyền giải quyết vụ việc cũng thuộc về Tòa án nhân
dân quận Y thành phố Hà Nội. Ngoài ra, vụ án này cũng không thuộc trường hợp
nào theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLTTDS về thẩm quyền của Tòa án theo sự
lựa chọn của nguyên đơn, người có yêu cầu.
Nói tóm lại, thẩm quyền giải quyết vụ việc
nói trên thuộc về Tòa án quận Y thành phố Hà Nội.