Tổng hợp các tình huống môn Luật hình sự (Có đáp án chi tiết)


Tổng hợp các tình huống môn Luật hình sự (Có đáp án chi tiết)


I. CÁC TÌNH HUỐNG VỀ HÌNH SỰ, MA TÚY, TỆ NẠN XÃ HỘI

1. Tình huống 1: B thấy chị H đeo hai nhẫn vàng ở ngón tay nên T dùng gậy đánh vào sau gáy của chị H làm chị H ngất, sau đó B lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H. Vậy B phạm tội gì?

Trả lời:

B đã có hành vi dùng vũ lực (dùng gậy đánh vào đầu chị H) để nhằm chiếm đoạt tài sản (lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H) và thực tế là B đã lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H, do đó B đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi hành động dùng sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém... Hành động tấn công này có thể làm cho người bị tấn công bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể cho nạn nhân. Việc dùng vũ lực là nhằm mục đích là làm cho người bị tấn công mất khả năng chống cự nhằm để cướp tài sản. Việc dùng vũ lực được thực hiện ở cả hai phương thức đó là phương thức bí mật (như: bắn lén lút, đánh vào sau gáy...) và phương thức công khai (tấn công trước mặt người bị tấn công để cho người đó biết, bất luận có người nào khác biết hay không).

Tình huống 2: T vừa lĩnh 50 triệu đồng tiền gửi ngân hàng đi ra đến đường quốc lộ thì K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T đưa tiền, nếu không đưa thì K sẽ đâm. Ngay lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới bắt giữ K. Vậy K có phạm tội không?

Trả lời:

K đã có hành vi đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực (dùng dao dí vào cổ T) để buộc T là người bị tấn công phải sợ và tin tưởng nếu không đưa tiền cho K thì tính mạng của T sẽ bị nguy hại (bị đâm dao vào người), do đó K đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. Bởi theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là đe doạ dùng ngay tức thì sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém... nếu người bị tấn công không chịu khuất phục để buộc người bị tấn công phải sợ và tin tưởng rằng nếu không để cho lấy tài sản thì tính mạng và sức khoẻ sẽ bị nguy hại. Ở đây thông thường được kết hợp giữa hành vi sẽ dùng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo, để tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin tưởng rằng người phạm tội sẽ dùng vũ lực.

Ngay tức khắc là ngay lập tức, không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị tấn công không giao tài sản cho người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

Tình huống số 3: T lập kế hoạch và bàn bạc với M và P cướp tiền của những người mới lĩnh tiền từ Ngân hàng Đ. T phân công cho M dùng dao đe doạ người bị tấn công, còn M lao vào cướp tiền rồi lên xe máy do T đang đứng đợi sẵn. Vậy T, M và P phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì cướp tài sản có tổ chức được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện tội cố ý cướp tài sản mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải vụ án cướp tài sản có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức thì mới phạm tội có tổ chức.

 Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi sướng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm...

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém người bị tấn công, trực tiếp cầm súng đe doạ người bị tấn công hay trực tiếp chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công...

Như vậy, trong vụ án cướp tài sản trên thì có ba người đó là T, M và P cùng cố ý thực hiện tội cướp tài sản, trong đó T là người tổ chức vì là người vạch kế hoạch, chủ động bàn bạc với M và P thực hiện hành vi cướp tài sản và phân công trách nhiệm cho M và P, còn M và P là những người thực hành vì có hành vi trực tiếp dùng dao đe doạ và cướp tài sản của người bị tấn công. Do đó T, M và P đã phạm tội cướp tài sản với tình tiết có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình huống 4: H là thợ điện dựng xe máy loại xe LEAD có giá trị 35 triệu đồng ở ria đường để trèo lên cột điện sửa chữa điện nhưng quên không rút chìa khoá. C đi qua thấy vậy liền tiến đến xe máy của H, gạt chân chống xe lên rồi nổ xe phóng đi. H ở trên cột điện nhìn thấy C lấy xe máy của mình nhưng không làm gì được. Vậy C có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?

Trả lời:

C có hành vi công khai, ngang nhiên, trắng trợn chiếm đoạt tài sản (lấy xe máy của H có giá trị 35 triệu đồng), H là chủ xe máy biết là C lấy xe máy của mình mà không thể giữ được. Hành vi đó của C là hành vi công nhiêm chiếm đoạt tài sản. Do đó C đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, ngang nhiên. Người phạm tội lấy tài sản ngay trước mắt chủ sở hữu tài sản mà người này không làm gì được (không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai).

 Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi chiếm đoạt tài sản, chủ sở hữu tài sản biết ngay người lấy tài sản của mình nhưng không thể giữ được.

Tình huống 5: T và K đang cắt lúa ở cánh đồng thì đột nhiên K bị cảm, thấy vậy T liền bế K lên đường thì nhìn thấy xe máy của G đang để ở ria đường, xe không khoá. T đặt K ngồi lên xe máy đó và nổ máy với mục đích để đưa K vào bệnh viện cấp cứu. G đang tắm ở dưới ao nhìn thấy T lấy xe của mình nhưng cũng không làm gì được. Vậy T có phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội.

Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, T lấy công khai lấy xe máy của G nhưng không có mục đích chiếm đoạt mà chỉ có mục đích đưa K đi bệnh viện cấp cứu vì K bị cảm, do đó T không phạm tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự.

Tình huống 6: H đang đi xe máy loại xe Jupiter vừa mới mua với giá 24 triệu đồng thì K là người quen của H vẫy tay xin đi nhờ. H dừng xe lại và đèo K đi cùng. Khi đi được một lúc thì H dừng xe trước quán nước và bảo K cùng vào quán uống nước. Lợi dụng lúc H đi rửa tay thấy xe vẫn đang mở khoá, K liền nổ máy phóng xe máy của H đi đến chợ T bán xe lấy tiền tiêu sài. Khi H rửa tay quay ra và hỏi Đ là chủ quán về xe của mình thì Đ vẫn tưởng xe đó là xe của K. Vậy K phạm tội gì?

Trả lời:

Lợi dụng lúc H đi rửa tay, K đã lén lút (bí mật) lấy xe máy của H và mặc dù K lấy xe máy của H ngang nhiên trước mặt Đ là chủ quán nước nhưng đó chỉ là ý thức che giấu tính hợp pháp cho hành vi của K để cho Đ tưởng đó là xe máy của K. Do đó hành vi của K chính là hành vi trộm cắp tài sản nên K đã phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản mà người này không hề hay biết tài sản của mình đang bị chiếm đoạt, chỉ sau khi mất thì thì người đó mới biết bị mất tài sản.

Tính chất lén lút, bí mật của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội che giấu, giấu diếm hành vi chiếm đoạt tài sản của mình đối với chủ sở hữu tài sản.

Người phạm tội không những chỉ có ý thức bí mật đối với người quản lý tài sản mà còn bí mật đối với người xung quanh khu vực có tài sản nhưng có những trường hợp người phạm tội không hề che giấu hành vi trộm cắp tài sản đối với người xung quanh nhưng lại có những hành động để người xung quanh tưởng lầm đó không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Ví dụ như: giả vờ đi nhờ xe để người xung quanh tưởng nhầm là xe của người đó và đợi cho đến khi chủ sở hữu của xe đó sơ hở, mất cảnh giác thì trộm cắp xe.

Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi trộm cắp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt trong từng trường hợp cụ thể.

- Nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ, gọn thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người.

Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt to, cồng kềnh thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội mang tài sản đó ra khỏi nơi quản lý của chủ sở hữu.

Tình huống 7: Sau khi Q lập kế hoạch trộm cắp xe máy của công ty K thì Q rủ rê P, T và V cùng trộm cắp xe máy. Sau khi P, T và V đồng ý Q đã chủ động bàn bạc về kế hoạch trộm cắp. Q có nhiệm vụ chuẩn bị các dụng cụ phá khoá cửa và theo dõi, chỉ huy hoạt động trộm cắp, Q phân công P thực hiện việc phá khoá, phân công T dắt xe máy ra và phân công V đưa xe máy đến nơi cất giấu mà Q đã chuẩn bị sẵn. Q, P, T và V trộm cắp đến lần thứ ba với tổng cộng là 7 chiếc xe máy thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Vậy Q, P, T và V phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Q, P, T và V đã phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi vì Q, P, T và V cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản (trộm cắp xe máy) mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó Q là người tổ chức, P, T và V là những người thực hành.

Q là người tổ chức bởi vì Q là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc trộm cắp xe máy, Q khởi sướng việc phạm tội, vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm, phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác (P, T và V) thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

P, T và V là những người thực hành vì là những người trực tiếp lén lút trộm cắp xe máy, trực tiếp phá khoá cửa, trực tiếp đưa xe máy đến nơi cất giấu.

Tình huống 8:  H là công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của công ty Đ, rồi buộc từng chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần lên và đi về. Khi ra đến cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi giầy trong ống quần, K yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy thế K đuổi theo và túm được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong người ra đâm vào tay K để cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tình tiết hành hung để tẩu thoát trong tội trộm cắp tài sản được hiểu là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc đối với người đã bắt giữ để người này không dám đuổi bắt hoặc không thể bắt giữ được nhằm để tẩu thoát.

Người phạm tội hành hung đối với người đuổi bắt (có thể là chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hoặc là người khác) nhằm mục đích tẩu thoát. Nhưng nếu người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản mà bị đuổi bắt hoặc đã bị chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hay người khác bắt giữ nhưng cố tình giữ bằng được tài sản đã trộm cắp bằng cách hành hung người đuổi bắt hoặc người đang bắt giữ thì ngườiphạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trong trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp sang tội cướp tài sản (hay còn gọi là đầu trộm đuôi cướp).

Như vậy, H là người trộm cắp tài sản bị K phát hiện thì đã bỏ chạy, K đuổi theo thì H đã hành hung K (rút dao trong người đâm vào tay K) nhưng H hành hung K không phải để tẩu thoát mà để giữ bằng được tài sản đã trộm cắp (đôi giầy). Do vậy H đã phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình huống 9: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên H đã đến nhà B giả vờ hỏi mượn xe máy loại xe Wave trị giá 15 triệu đồng để đi thăm người ốm. Khi B cho H mượn xe thì H đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được 5 triệu đồng và H lấy số tiền này để đánh bạc. Vậy H phạm tội gì?

Trả lời :

H có hành vi dùng thủ đoạn gian dối (giả vờ mượn xe máy loại xe LEAD trị giá 35 triệu đồng để đi thăm người ốm) làm cho B là chủ sở hữu chiếc xe máy tưởng là thật nên đã  tự nguyện giao xe máy cho H. Khi H nhận được xe máy của B thì H đã có hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy (bán xe máy được 5 triệu đồng để lấy tiền đánh bạc). Hành vi đó của H là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do đó H đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hành vi duy nhất đó là hành vi chiếm đoạt nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Trong đó thủ đoạn gian dối là điều kiện để thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Gian dối là đưa ra thông tin hay hành động không đúng sự  thật nhằm đánh lừa người khác để người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối được thực hiện rất đa dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người có chức vụ, quyền hạn… Hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm để chiếm đoạt tài sản, còn nếu có hành vi gian dối không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà nhằm mục đích khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể để nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Luật hình sự Việt Nam không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có thủ đoạn gian dối thuộc về tư tưởng, suy nghĩ mà không biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi.

Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp có thể phạm tội khác.

Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch tài sản của người khác thành tài sản của mình bằng thủ đoạn gian dối.

Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc người có hành vi lừa đảo đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tội phạm hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt tài sản đã xảy ra.

Tình huống 10: C có nhu cầu xây dựng nhà ở nên đã hỏi vay của T 50 triệu đồng để xây dựng nhà ở. T đồng ý và đưa cho C vay 50 triệu đồng (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận). Sau khi nhận tiền của T thì C lại không xây nhà vì C không muốn ở Việt Nam mà muốn sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C. Vì không định trả lại tiền vay cho T nên khi đi C mang theo 50 triệu đồng đã vay của T. Vậy C có phạm tội không?

Trả lời:

C vay được tài sản của người khác (vay được 50 triệu đồng của T) bằng hợp đồng bằng văn bản hợp pháp (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận) nhưng sau khi vay được tiền thì C đã bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản (bỏ sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C để chiếm đoạt 50 triệu đồng tiền vay của T). Hành vi đó của C chính là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do đó C đã phạm tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi sau:

Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng hợp pháp (hình thức của hợp đồng có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng) rồi dùng thủ đoạn gian dối (như: giả tạo bị mất tài sản; đánh tráo tài sản; rút bớt tài sản...) hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó. Thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản chỉ xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tình huống 11: Anh  K vừa qua đã bị cơ quan có thẩm quyền truy tố do hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự. Quá trình luận tội, xét thấy anh K đang có nơi làm việc ổn định, cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng, không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội, nên anh K đã bị Tòa án tuyên phạt cải tạo không giam giữ 1 năm. Một số ý kiến thắc mắc cho rằng Tòa án đã xét xử chưa đúng người, đúng tội. Xin hỏi trường hợp này pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giữ giữ 1 năm đối với trường hợp anh K ở trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật vì theo Điều 36 của Bộ luật, cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Tình huống 12: Chị Nguyễn Thị H sống độc thân, do thiếu hiểu biết, chị đã cho một gái bán dâm ở trong nhà chị và thực hiện hành vi mua bán dâm với nhiều người trong nhiều lần khác nhau, xin hỏi trường hợp của chị có phải là phạm tội nhiều lần không?

Theo hướng dẫn tại mục 4, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn);

b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;

c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.

Trường hợp của chị Nguyễn Thị H nêu trên vi phạm điểm c “Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau” được coi là “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm c, khoản 2 điều 254 của Bộ luật hình sự.

Tình huống 13: Trần Tiến D là kế toán trưởng của Tập đoàn chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, D đã móc nối với một số đối tác để làm chứng từ khống, thu lợi bất chính nhiều tỷ đồng và đã bị cơ quan điều tra phát hiện. Xin hỏi trong trường hợp này, việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của D có bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật, việc Trần Văn D lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội sẽ bị coi là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt. Theo đó, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 bao gồm:

a) Phạm tội có tổ chức;

b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

g) Phạm tội 02 lần trở lên;

h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;

k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội;

n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;

o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;

p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

Tình huống 14: Nguyễn Văn V do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng bọn đột nhập vào nhà bà M trộm cắp. Khi bị phát hiện V đã chủ động tấn công và đâm chết cháu trai của bà M khi anh này cố tình ngăn cản không cho V chạy thoát. Sau khi V bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố V về tội giết người thì gia đình V đã có đơn kiện, cho rằng do V còn nhỏ (mới hơn 14 tuổi), nhận thức kém, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

Trả lời:

Điều 12 Bộ luật quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:

a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);

b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).

Căn cứ quy định ở trên, V bị truy tố tội giết người khi V đã hơn 14 tuổi, là đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra nên việc gia đình V có đơn kiện là hoàn toàn trái quy định của pháp luật.

Tình huống 15: Do mâu thuẫn về đất đai trong quá trình xây dựng nhà ở, Nguyễn Tiến D đã bàn bạc âm mưu cùng 2 anh trai sang nhà ông B hàng xóm gây rối và đánh người nhà ông B. Kết quả ông B và con trai ông đã bị anh em D đánh gây thương tích đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cơ quan công an còn phát hiện bố đẻ D là ông H cũng biết trước việc này. Đề nghị cho biết trường hợp này ông H có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự do không tố giác tội phạm hay không?

Trả lời:

Theo Điều 19 của Bộ luật, người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 389 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Điều luật cũng quy định người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy định như trên, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật hình sự.

Đối chiếu với quy định trên, ông H sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do không tố giác tội phạm là con đẻ của mình.

Tình huống 16: Anh Nguyễn Văn H uống rượu say nên trên đường đi làm về đã gây ra tai nạn giao thông làm trọng thương một người đi bộ sang đường; sau đó gia đình anh H đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầy đủ các chi phí cho họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không xử lý hình sự đối với anh H. Trong trường hợp này, anh H có phải chịu trách nhiệm hình sự nữa không ?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

Đối chiếu với quy định ở trên, việc anh H khi gây tai nạn trong tình trạng say rượu là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều luật nói trên. Mặc dù người gây tai nạn đã bồi thường thiệt hại về vật chất nhưng theo quy định của pháp luật, người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra. Việc người gây án đã chủ động bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân sẽ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt khi vụ án được đưa ra xét xử.

Tình huống 17: Anh Trần Văn D bị tòa án phạt 20 tháng tù về tội vi phạm các qui định về an toàn giao thông đường bộ. Sau khi gây án, anh Đ rất ăn năn, hối cải, khai báo thành khẩn. Trong khi chờ đi thụ hình đã có công cứu được 3 trẻ nhỏ bị nước lũ cuốn trôi. Như vậy anh D có được được miễn chấp hành hình phạt tù không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 59 Bộ luật hình sự năm 2015, người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.

Khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự quy định: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, anh D đã có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ nhờ việc hối cải, khai báo thành khẩn và lập công chuộc tội thì có thể được xét miễn chấp hành hình phạt.

Tình huống 18: Nguyễn Thị A phạm tội buôn bán ma túy. Trong quá trình điều tra, truy tố xét xử, cơ quan có thẩm quyền phát hiện A đang có thai. Xin hỏi trong trường hợp này A có được hoãn chấp hành hình phạt tù hay không?

Trả lời:

Theo Điều 67 của Bộ luật, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Đối chiếu với quy định nêu trên, Nguyễn Thị A sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi đứa con được 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, trường hợp trong thời gian được hoãn, A lại tiếp tục phạm tội thì A sẽ bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt trước đó theo quy định nêu trên.

Tình huống 19: Nguyễn Hữu T cùng đồng bọn phạm tội cướp giật tài sản khi T mới được 17 tuổi 5 tháng. Quá trình điều tra xác định T phạm tội với tư cách là đồng phạm giúp cho đồng bọn bỏ trốn, không trực tiếp tham gia vào vụ cướp giật tài sản. Trong trường hợp này, T có thể bị áp dụng biện pháp khiển trách hay không?

Trả lời:

Theo Điều 93 của Bộ luật, khiển trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:

a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng;

b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Căn cứ quy định trên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách đối với T. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.

Đồng thời, điều luật cũng quy định T phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;

b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;

c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.

Tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.

Tình huống 20: Trần Văn D làm nghề lái xe tắc xi. Trong một lần chở khách ban đêm, H đã vô tình tông phải vợ chồng anh G làm cho anh bị thương tích nặng. Quá hoảng sợ, D đã lái xe bỏ chạy, bỏ mặc vợ chồng anh G trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hành vi của D phạm tội gì và bị xử lý ra sao?

Trả lời:

Hành vi của D đã phạm vào tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng quy định tại Điều 132 của Bộ luật. Theo đó, người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;

b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.

Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.


II. TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI

Tình huống 1: Gia đình ông N được giao 3 ha đất để trồng lúa đến nay đã được 3 năm nhưng do điều kiện khí hậu hạn hán, đất đai khô cằn nên năng suất trồng lúa không cao. Qua một 3 năm trồng lúa ông N nhận thấy đất ở đây không phù hợp với việc trồng lúa vì vậy ông muốn chuyển đổi sang trồng một số loại cây như đỗ, lạc. Hỏi: Xin hãy trường hợp của ông N có phải làm chuyển đổi mục đích sử dụng đất không? Cơ quan nào có thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất?

Trả lời

Căn cứ tại Điều 57 Luật đất đai 2013 có quy định chuyển mục đích sử dụng đất như sau:

"1. Các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm:

a) Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối;

b) Chuyển đất trồng cây hàng năm khác sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm;

c) Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích khác trong nhóm đất nông nghiệp;

d) Chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;

đ) Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất;

e) Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;

g) Chuyển đất xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ sang đất thương mại, dịch vụ; chuyển đất thương mại, dịch vụ, đất xây dựng công trình sự nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp.

2. Khi chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; chế độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được áp dụng theo loại đất sau khi được chuyển mục đích sử dụng".

 Như vậy, trường hợp của ông N là chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp nên cần phải tiến hành thủ tục xin phép. Đồng thời ông N phải đến Uỷ ban nhân dân nơi ra quyết định giao đất để làm thủ tục xin phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của Khoản 2 Điều 37 Luật đất đai 2003, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được thực hiện như sau : “Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; giao đất đối với cộng đồng dân cư.”

Tình huống 2: Vợ chồng ông A bà B năm 1968 có nhận chuyển nhượng một thửa đất bằng giấy tay và làm nhà ở từ trước đến nay, có đăng ký kê khai theo bản đồ 299 (năm 1984), 202 (năm 1997). Vợ chồng ông A bà B sử dụng thửa đất liên tục từ đó đến nay ổn định, không tranh chấp, phù hợp với quy hoạch. Nay vợ chồng ông A bà B muốn lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không biết mình có đủ điền kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không. Xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

Trả lời:

Thời điểm sử dụng đất của ông A bà B là từ năm 1968. Từ đó đến nay, vợ chồng ông A bà B đã sử dụng, ở ổn định liên tục, không tranh chấp, có tên trong sổ địa chính năm 1984, có đăng ký kê khai năm 1997. Theo quy định tại khoản 1 Điều Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:

Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.

Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;

b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;

c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;

d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.

Như vậy chiếu theo quy định nêu trên thì ông A và bà B đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Tình huống 3: Trong quá trình thương lượng, bàn bạc làm ăn, kinh doanh giữa doanh nghiệp K có vốn đầu tư nước ngoài với một doanh nghiệp trong nước C đã thỏa thuận: Doanh nghiệp K đã nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp C đang sử dụng có nguồn gốc được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất với điều kiện doanh nghiệp C phải thực hiện đầy đủ xong các nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật. Xin hỏi, thỏa thuận này của hai bên có đúng với các quy định của pháp luật hay không? Việc chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất được pháp luật quy định như thế nào?

Theo quy định tại Điều 39 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi tắt là Nghi định số 43/2014/NĐ-CP) quy định về chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất:

- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp đang sử dụng đất có nguồn gốc được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê mà giá trị quyền sử dụng đất đã được vốn hóa vào vốn của doanh nghiệp, trừ trường hợp chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp.

- Doanh nghiệp, các thành viên là chủ sở hữu doanh nghiệp khi chuyển nhượng vốn đầu tư phải xác định phần vốn là giá trị quyền sử dụng đất trong tổng giá trị vốn chuyển nhượng và phải thực hiện nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

Như vậy, thỏa thuận nêu trên của hai bên K và C hoàn toàn đúng với các quy định của pháp luật.

Tình huống 4: Cách đây 10 năm, gia đình nhà ông Q - một hộ dân tộc thiểu số ở tỉnh miền núi phía Bắc được Nhà nước được hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống góp phần xóa đói, giảm nghèo Nhờ chăm chỉ lao động, gia đình ông Q đã khai phá mảnh đất, trồng trọt, canh tác, nuôi sống gia đình và có điều kiện cho các con ăn học. Nay do già cả, sức khỏe có phần yếu đi, con cái lại đi làm ăn xa, nên Q đã lên Ủy ban nhân dân xã nơi cú trú để trình bày nguyện vọng được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình em trai của mình. Xin hỏi, pháp luật quy định về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ như thế nào?

Theo quy định tại Điều 40 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về điều kiện chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ:

- Hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không còn nhu cầu sử dụng do chuyển khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú để đến nơi khác hoặc do chuyển sang làm nghề khác hoặc không còn khả năng lao động.

- Tổ chức, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước mà không thuộc trường hợp được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định nêu trên.

Như vậy, theo qui định pháp luật, gia đình ông Q có thể chuyển nhượng  quyền sử dụng đất cho gia đình em trai, nếu đó là đất được nhà nước cấp theo chính sách hỗ trợ quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất nếu được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận không còn nhu cầu sử dụng.

Tình huống 5: Anh H là tổng giám đốc công ty đầu tư và tư vấn xây dựng PQ đã tiến hành đầu tư vốn để xây dựng 01 dự án kinh doanh nhà ở để bán trong trung tâm thành phố. Tuy nhiên, khi dự án đang triển khai thì phát sinh một số thay đổi về vốn và nhân lực, nên công ty của anh đã thương lượng để tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở này cho một công ty xây dựng khác trong thành phố. Giám đốc công ty này yêu cầu công ty PQ phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm các công trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt; đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người dân tự xây dựng nhà ở; đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu gồm cấp điện, cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải…mới tiến hành nhận chuyển nhượng. Xin hỏi các điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê được pháp luật quy định như thế nào?

Theo quy định tại Điều 41 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê:

- Điều kiện dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền, bao gồm:

+ Phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện;

+ Chủ đầu tư dự án phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm các công trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đã được phê duyệt; đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người dân tự xây dựng nhà ở; đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu gồm cấp điện, cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải;

+ Chủ đầu tư phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai của dự án gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thuế, phí, lệ phí liên quan đến đất đai (nếu có);

+ Dự án thuộc khu vực, loại đô thị được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền theo quy định pháp luật.

- Chủ đầu tư dự án xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền tại các khu vực không nằm trong địa bàn các quận nội thành của các đô thị loại đặc biệt; khu vực có yêu cầu cao về kiến trúc cảnh quan, khu vực trung tâm và xung quanh các công trình là điểm nhấn kiến trúc trong đô thị; mặt tiền các tuyến đường cấp khu vực trở lên và các tuyến đường cảnh quan chính trong đô thị.

- Hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tự xây dựng nhà ở phải thực hiện việc xây dựng nhà ở theo đúng giấy phép xây dựng, tuân thủ quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị đã được phê duyệt.

Như vậy công ty đầu tư và tư vấn xây dựng PQ phải đáp ứngđủ các điều kiện nêu trên để chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê

 

          Tình huống 6:  Hộ gia đình ông Nguyễn Văn A sinh sống bằng nghề nuôi cá basa ở tỉnh K, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích đất nuôi trồng của gia đình ông vào khoảng 2 héc ta (ha). Do giá cá basa trên thế giới gần đây tăng nên ông A và gia đình quyết định mở rộng diện tích nuôi trồng lên 25 héc ta bằng cách nhận chuyển nhượng những diện tích đất nuôi trồng thủy sản của các hộ gia đình khác ở xung quanh. Việc nhận chuyển nhượng diện tích đất này của gia đình ông A có thuộc hành vi bị nghiêm cấm theo các quy định của Luật đất đai năm 2013 hay không?

Điều 12 Luật đất đai năm 2013 quy định về những hành vi bị nghiêm cấm thực hiện liên quan đến đất đai, trong đó, tại Khoản 5 quy định: “5. Nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này.”

Như vậy, việc nhận chuyển nhượng diện tích đất để nuôi trồng thủy sản vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này mới là hành vi bị cấm.

Do đất ông A nhận chuyển nhượng là đất sử dụng để nuôi trồng thủy sản và khu vực đất đều thuộc tỉnh K thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 129 Luật đất đai năm 2013, cụ thể: “1. Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp như sau:

a) Không quá 03 héc ta cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long;”

Theo Khoản 1 Điều 130 Luật đất đai năm 2013 thì hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được quy định cụ thể như sau: “Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật này.

Theo đó, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình ông A là không vượt quá 30 héc ta. Đối chiếu với trường hợp của ông A, gia đình ông đã có 2 héc ta và muốn mở rộng lên 25 héc ta. Như vậy, ông A phải mua thêm 23 héc ta. Diện tích đất mua thêm này chưa vượt quá hạn mức cho phép nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp theo quy định của Luật đất đai năm 2013. Vì vậy, hành vi nhận chuyển nhượng diện tích đất này của gia đình ông A không thuộc hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật đất đai năm 2013.

Tình huống 7: Doanh nghiệp X là một công ty xây dựng có uy tín tại Hà Nội. Do nhận thấy thị trường nhà ở cho công nhân khu công nghiệp gần đó rất có tiềm năng phát triển nên doanh nghiệp có ý định tham gia vào một dự án đầu tư xây dựng nhà chung cư. Để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cho việc thực hiện dự án đầu tư này thì doanh nghiệp X phải đáp ứng các điều kiện nào?

          Theo Điểm a, Khoản 1 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai (Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) thì các dự án có sử dụng đất phải áp dụng các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 58 của Luật đất đai gồm:

          “a) Dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để cho thuê hoặc để bán kết hợp cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở;

          Như vậy, dự án mà doanh nghiệp X muốn tham gia (xây dựng nhà chung cư để bán cho công nhân) thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này. Để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì doanh nghiệp X phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 58 Luật đất đai năm 2013 như sau:

- Thứ nhất, có năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư. Theo đó, Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư gồm:

   + Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên;

   + Có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác.

- Thứ hai, ký quỹ theo quy định của pháp luật về đầu tư;

- Thứ ba, không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác. Việc xác định người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác xác định theo các căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP:

   + Kết quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai đối với các dự án tại địa phương được lưu trữ tại Sở Tài nguyên và Môi trường;

   + Nội dung công bố về tình trạng vi phạm pháp luật đất đai và kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai đối với các dự án thuộc địa phương khác.

Lưu ý, thời điểm thẩm định các điều kiện trên được thực hiện đồng thời với việc thẩm định nhu cầu sử dụng đất của chủ đầu tư khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật hoặc chấp thuận đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì thời điểm thẩm định được thực hiện trước khi tổ chức phiên đấu giá quyền sử dụng đất.

Tình huống 8: Tập đoàn ABC là một tập đoàn lớn chuyên xây dựng các dự án khu trung tâm mua sắm và nhà ở thương mại. Tập đoàn đang có ý định sử dụng một diện tích đất lớn tại khu vực quận H ở thành phố HN. Việc sử dụng đất để thực hiện dự án này của tập đoàn có thuộc phạm vi được Nhà nước thu hồi đất hay không? Nếu không thì việc sử dụng đất này sẽ thông qua hình thức và nguyên tắc nào?

Có thể thấy việc sử dụng đất của tập đoàn ABC để xây dựng dự án khu trung tâm mua sắm và nhà ở thương mại không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai (các trường hợp Nhà nước thu hồi đất đã được trình bày ở các câu 16, 17, 19, 20). Do đó, việc sử dụng đất này của tập đoàn không thể được thực hiện dưới hình thức Nhà nước thu hồi đất, mà sẽ thực hiện thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh được quy định tại Điều 73 Luật đất đai năm 2013.

Theo Khoản 1 Điều 73 Luật đất đai năm 2013, việc sử dụng đất để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61, Điều 62 của Luật mà phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì chủ đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Khoản 2 Điều 73 Luật đất đai năm 2013 cũng quy định rõ Nhà nước có chính sách khuyến khích việc thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, việc sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thông qua hình thức mua tài sản gắn liền với đất, nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tập đoàn ABC phải đảm bảo các nguyên tắc được quy định tại Điều 16 Nghị định sô 43/2014/NĐ-CP như sau:

- Phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được phê duyệt và công bố.

- Trên địa bàn không còn quỹ đất đã được giải phóng mặt bằng để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phù hợp, trừ trường hợp các dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư.

- Trường hợp chủ đầu tư thực hiện phương thức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà phải chuyển mục đích sử dụng đất thì chỉ được thực hiện sau khi Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cho phép điều chỉnh thời hạn sử dụng đất cho phù hợp với việc sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh.

- Trường hợp diện tích đất thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh có phần diện tích đất mà người đang sử dụng đất không có quyền chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì chủ đầu tư được phép thỏa thuận mua tài sản gắn liền với đất của người đang sử dụng đất, Nhà nước thực hiện thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất và cho chủ đầu tư thuê đất để thực hiện dự án. Nội dung hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất phải thể hiện rõ người bán tài sản tự nguyện trả lại đất để Nhà nước thu hồi đất và cho người mua tài sản thuê đất.

Tình huống 9: Ông C vốn là người Miền Nam nhưng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã chuyển ra sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Hiện mảnh đất mà ông và gia đình đang ở được ông C gây dựng từ khi ra Hà Nội vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, nên ông C có nguyện vọng muốn làm Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, do mấy năm trước nhà ông bị cháy nên các giấy tờ về quyền sử dụng đất chứng minh mảnh đất là của ông và gia đình đã không còn. Vậy trường hợp ông C có được cấp Giấy chứng nhận hay không?

Khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”

Theo đó, gia đình ông C sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nếu gia đình ông đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01/7/2014 và không vi phạm pháp luật về đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch (Theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP).

Tình huống 10: Doanh nghiệp X là một tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản của tỉnh H. Hiện doanh nghiệp X đang muốn thuê ngôi nhà tại địa chỉ 27 đường Nguyễn Chí Thanh của ông Y để làm trụ sở kinh doanh. Vậy, hợp đồng thuê giữa doanh nghiệp X và ông Y có bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật đất đai hay không?

Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 167 Luật đất đai năm 2013 thì “b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;”

Đối chiếu với hợp đồng thuê nhà giữa doanh nghiệp X và ông Y, có thể thấy hợp đồng này là hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (ngôi nhà) mà trong đó có một bên là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản (doanh nghiệp X). Như vậy, hợp đồng này không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực mà chỉ khi có yêu cầu của các bên trong hợp đồng mới phải thực hiện công chứng hoặc chứng thực.

Ngoài ra, nếu có yêu cầu việc công chứng sẽ được thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, còn việc chứng thực sẽ được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

Tình huống 11: Gia đình ông A có thửa đất diện tích 720 m2, đã được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mục đích sử dụng là đất trồng lúa. Năm 2015, con trai ông A là anh K lấy vợ. Ông A sử dụng 360 m2 trong thửa đất nêu trên để xây nhà cho con trai. Hỏi hành vi của ông A có vi phạm pháp luật đất đai không? Nếu có vi phạm thì bị xử phạt thế nào?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 170 Luật đất đai 2013 quy định về nghĩa vụ chung của người sử dụng đất như sau:

“Điều 170. Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất

1. Sử dụng đất đúng mục đích,.[…]”

Như vậy, ông A đã có hành vi vi phạm pháp luật đất đai, cụ thể là đã sử dụng đất không đúng mục đích: chuyển mục đích 360 m2 diện tích đất trồng lúa đã được cấp GCNQSDĐ thành đất ở mà không xin phép. Căn cứ quy định tại Điều 206 Luật đất đai 2013 thì người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Khoản 3 Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:

“Điều 6. Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép

[…] 3. Chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp thì hình thức và mức xử phạt như sau:

a) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,5 héc ta;[…]”

Trong trường hợp này, ông A đã có hành vi chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất ở là đất phi nông nghiệp, với diện tích 360 m2 (nhỏ hơn 0,5 héc ta). Do đó, ông A có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP thì ông A còn buộc phải khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm (nếu có) do hành vi vi phạm nêu trên.

Tình huống 12: Ông A, ông B lần lượt là chủ sử dụng hợp pháp của hai mảnh đất a, b tại thôn X, có mục đích sử dụng là đất ở. Tuy nhiên mảnh đất của ông A chưa sử dụng do hiện tại ông sinh sống ở thôn Y. Còn ông B đã xây nhà và sinh sống trên thửa đất của mình. Sau một thời gian, ông A phát hiện cột mốc ranh giới giữa hai thửa đất a và b đã bị dịch chuyển, diện tích thửa đất a của ông A bị ông B lấn sang khoảng 2 m2.. Hỏi, hành vi của ông B bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật đất đai 2013 (có hiệu lực từ 01/07/2014) thì các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:

“Điều 12: Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai […]”.

Trong đó, khoàn 1 điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai giải thích:

“1. Lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất[…]."

 Như vậy, ông B đã thực hiện việc chuyển dịch mốc giới thửa đất để mở rộng diện tích đất của nhà mình, nên được xem là hành vi lấn đất. Đây là hành vi bị nghiêm cấm.

Việc xử phạt được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP nói trên. Cụ thể:

Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lấn, chiếm đất ở.”

Ngoài ra, phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm và trả lại đất đã lấn theo quy định tại khoản 5 Điều 10 Nghị định 102/2004/NĐ-CP.

Có nghĩa ông B có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, và phải trả lại nguyên trạng đất cho ông A.

Tình huống 13: Ông A khởi kiện ông B lên Tòa án nhân dân huyện Y yêu cầu trả lại thửa đất K tọa lạc tại xã X, huyện Y vì cho rằng đây là đất của ông A bị ông B chiếm. Ông A không xin được trích lục hồ sơ địa chính tại xã X của thửa đất này nên có đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ. Tòa án đã tiến hành thực hiện việc thu thập chứng cứ là yêu cầu xã X trích lục hồ sơ thửa đất. Tuy nhiên quá thời hạn yêu cầu mà UBND xã X không cung cấp tài liệu. Hỏi, hành vi của xã X có vi phạm pháp luật không?

Trả lời:

Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát.Như vậy, hành vi không cung cấp chứng cứ trong thời hạn yêu cầu xã X là vi phạm nghĩa vụ trong việc cung cấp chứng cứ là trích lục hồ sơ địa chính của thửa đất K nêu trên. Khoản 3 Điều 29 Nghị định 102/2014/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:

“Điều 29. Vi phạm quy định về cung cấp thông tin đất đai liên quan đến thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân

[…]

3. Phạt tiền từ trên 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân.”

Trong trường hợp này, do có hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin đất đai liên quan đến việc thu thập chứng cứ, UBND xã X có thể bị phạt tiền từ trên 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định như trên.

Tình huống 14: Công ty TNHH X có lĩnh vực hoạt động chủ yếu trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là hoạt động thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Công ty X mở tổng đài tư vấn giá đất cho khách hàng (ngành nghề này không được đăng ký khi thành lập doanh nghiệp). Hỏi, hành vi của công ty X có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Công ty X chưa đăng ký ngành nghề tư vấn giá đất, do đó chưa đủ điều kiện thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực đất đai. Hành vi này bị xử phạt theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 30 Nghị didhj 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:

“Điều 30. Vi phạm điều kiện về hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai

1. Tổ chức có hành vi vi phạm về điều kiện được hoạt động tư vấn xác định giá đất thì hình thức và mức xử phạt như sau:

a) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi hoạt động tư vấn xác định giá đất nhưng không có chức năng tư vấn giá đất hoặc thẩm định giá hoặc tư vấn định giá bất động sản;[…]”

Như vậy trong tình huống này, công ty X đã có hành vi vi phạm điều kiện về hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là hoạt động tư vấn xác định giá đất nhưng không có chức năng tư vấn giá đất. Do đó, căn cứ quy định trên, Công ty X bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, căn cứ điểm b khoản 4 Điều 30 Nghị định 102/2014/NĐ-CP, Công ty X còn bị đình chỉ hoạt động từ 09 tháng đến 12 tháng do đây là tổ chức không có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giá đất.

Tình huống 15: Công ty cổ phần Bất động sản A là đơn vị được Nhà nước giao đất xây dựng chung cư X để bán. Công ty A nhận trách nhiệm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở tại chung cư X. Trong Hợp đồng mua bán căn hộ với khách hàng có nêu rõ, Công ty A sẽ thực hiện việc làm hồ sơ cấp Giấy chứng nhận và bàn giao nhà ở cho khách hàng ngay sau khi nhận được toàn bộ số tiền thanh toán. Tuy nhiên, có khoảng 12 hộ dân trong khu chung cư vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận dù đã thanh toán đầy đủ và được bàn giao nhà ở từ 5 tháng trước. Hỏi, hành vi của công ty A  bị xử phạt như thế nào?

Trà lời:

Trong tình huống này, Công ty A đã có hành vi chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở, cụ thể là chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho 12 hộ dân (khách hàng) trong 5 tháng (kể từ khi khách hàng được bàn giao nhà ở).

Hành vi này bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 26 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:

“Điều 26. Chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở, người nhận quyền sử dụng đất ở

Trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất xây dựng nhà ở để bán nhận trách nhiệm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở, người nhận quyền sử dụng đất ở mà chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận kể từ ngày bàn giao nhà ở, đất ở thì hình thức và mức xử phạt như sau:

1. Chậm làm thủ tục từ 03 tháng đến 06 tháng:

a) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp chậm làm thủ tục cho dưới 30 hộ gia đình, cá nhân;[…]”

Vậy, với hành vi vi phạm như trên, công ty X bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

 


III. CÁC TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG

Tình huống 1: Công ty TNHH Dược X là  công ty chuyên sản xuất thuốc. Công ty X chưa được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Trong quá trình hoạt động, công ty X đã thực hiện hành vi xả nước thải có nhiều hóa chất độc vào nguồn nước ước tính với lưu lượng nước thải từ 60 m3/ngày đêm. Hỏi: Hành vi của công ty X có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì bị xử phạt như thế nào?

Trả lời:

Theo Khoản 3 Điều 37 Luật tài nguyên nước năm 2012 quy định về xả nước thải vào nguồn nước thì tổ chức, cá nhân xả nước thải vào nguồn nước phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 73 của Luật này cấp giấy phép, trừ trường hợp xả nước thải với quy mô nhỏ và không chứa hóa chất độc hại, chất phóng xạ.

Điều 16 Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước đã xác định các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước không phải đăng ký, không phải xin phép:

3. Các trường hợp không phải xin phép xả nước thải vào nguồn nước quy định tại Khoản 5 Điều 37 của Luật tài nguyên nước bao gồm:

a) Xả nước thải sinh hoạt của cá nhân, hộ gia đình;

b) Xả nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với quy mô không vượt quá 5m3/ngày đêm và không chứa hóa chất độc hại, chất phóng xạ; [..]”.

Do doanh nghiệp X có lưu lượng nước thải từ 60 m3/ngày đêm, lại kèm theo nhiều hóa chất độc nên phải có thủ tục xin cấp giấy phép xả thải tại cơ quan có thẩm quyền. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 12 Nghị định 142/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản thì nh vi xả nước thải vào nguồn nước không có giấy phép theo quy định của pháp luật của Công ty X bị xử phạt như sau:

“[…]3. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau:

a) Xả nước thải vào nguồn nước với lưu lượng nước thải từ 50 m3/ngày đêm đến dưới 100 m3/ngày đêm, trừ trường hợp quy định tại Điểm b Khoản này;[..]”

Như vậy, với hành vi vi phạm như trên, Công ty X có thể bị phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng. Đồng thời, Công ty X buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái nguồn nước đối với các hành vi vi phạm mà gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng nguồn nước nhằm khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 11 Điều 12 Nghị định 142/2013/NĐ-CP.

Tình huống 2: Công ty A được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản. Theo đó diện tích thăm dò khoáng sản là 1000 ha. Tuy nhiên trong quá trình thăm dò, công ty A đã thăm dò khoáng sản ra ngoài ranh giới theo Giấy phép thăm dò khoáng sản đã được cấp. Diện tích đã thăm dò bên ngoài ranh giới là 200 ha. Hỏi Công ty A có vi phạm pháp luật không? Nếu vi phạm thì bị xử phạt như thế nào?

Trả lời:

Khoản 3 Điều 24 Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản đối với hành vi vi phạm các quy định về khu vực thăm dò khoáng sản như sau:

“3. Phạt tiền đối với hành vi thăm dò khoáng sản ra ngoài ranh giới mà diện tích đã thăm dò bên ngoài ranh giới vượt đến 10% tổng diện tích khu vực được phép thăm dò khoáng sản, cụ thể như sau:

[…]

b) Từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với trường hợp thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trừ trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này;

[…]”

Công ty A đã có hành vi vi phạm các quy định về khu vực thăm dò khoáng sản. Cụ thể là hành vi thăm dò khoáng sản ra ngoài ranh giới đã được phê duyệt và quy định trong Giấy phép thăm dò khoáng sản do UBND tỉnh cấp, diện tích thăm dò bên ngoài ranh giới là 200 ha (vượt quá 20% tổng diện tích khu vực được phép thăm dò khoáng sản). Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 24 Nghị định 142/2013/NĐ-CP, công ty A có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.

Ngoài ra, Công ty A còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là buộc san lấp, phục hồi môi trường trong diện tích khu vực đã thăm dò vượt ra ngoài diện tích được phép thăm dò, cụ thể đối với diện tích 200 ha vượt quá.

Tình huống 3: Doanh nghiệp A được cấp UBND tỉnh K cấp phép khai thác khoáng sản tại khu vực X. Sau khi đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai thác thì do không đảm bảo được số vốn nên đã chuyển nhượng cho Doanh nghiệp B là một đơn vị có nhu cầu khai thác (Doanh nghiệp B có đủ điều kiện được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản.). Hai bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng, kèm theo bản kê giá trị tài sản chuyển nhượng. Sau khi ký kết, doanh nghiệp B đã thay thế doanh nghiệp A tiến hành khai thác tại khu vực X nêu trên. Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản của Doanh nghiệp A cho Doanh nghiệp B có hợp pháp không? Nếu có vi phạm thì bị xử phạt như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm e khoản 1 điều 55 Luật khoáng sản 2010 thì Doanh nghiệp A có quyền chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Theo đó, khi chuyển nhượng, Doanh nghiệp A phải tuân thủ các điều kiện quy định tại Điều 66 Luật khoáng sản 2010 quy định về việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản như sau:

- Tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai thác thì được chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản.

- Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản phải có đủ điều kiện được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản.

- Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép khai thác khoáng sản chấp thuận; trường hợp được chấp thuận, tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản mới.

Trong tình huống này, Doanh nghiệp A đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai thác nên được phép chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản; doanh nghiệp B cũng đủ điều kiện nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, do việc chuyển nhượng này mới chỉ được thực hiện giữa Doanh nghiệp A và Doanh nghiệp B, chưa được sự chấp thuận của UBND tỉnh K nên chưa đảm bảo đầy đủ các điều kiện tại điều 66 Luật khoáng sản 2010. Đây là hành vi vi phạm quy định về việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản và bị xử phạt theo quy định tại Điều 35 Nghị định số 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản, cụ thể:

“Điều 35. Vi phạm quy định về chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản

Phạt tiền đối với hành vi thực hiện việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản khi chưa được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép chấp thuận, cụ thể như sau:

[…] 2. Từ 120.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với khai thác khác thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trừ trường hợp quy định Khoản 1 Điều này.[…]

Như vậy, với hành vi vi phạm như trên, Doanh nghiệp A có thể bị phạt tiền từ 120.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng.

Tình huống 4: Công ty cổ phần X được Ủy ban nhân dân tỉnh X cấp Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Trong giấy phép ghi rõ vị trí xả nước thải vào nguồn nước tại điểm A. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Công ty X đã thực hiện việc xả nước thải vào nguồn nước tại vị trí B (cách vị trí A 10m). Hỏi, hành vi của công ty X có bị xử phạt không?

Trả lời:

Khoản 2 Điều 38 Luật tài nguyên nước quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước như sau:

“[…] 2. Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước có các nghĩa vụ sau đây:

a) Chấp hành quy định của pháp luật về tài nguyên nước và thực hiện đúng nội dung của giấy phép; […]”

Như vậy, trong trường hợp trên, công ty X đã vi phạm nghĩa vụ, không thực hiện đúng nội dung của giấy phép. Cụ thể, không thực hiện việc xả nước thải vào nguồn nước tại vị trí quy định trong giấy phép (trong giấy phép là điềm A, thực tế là điểm B). Công ty X đã có hành vi vi phạm quy định của Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Hành vi vi phạm của Công ty X bị xử phạt theo quy định tại Điều 13 Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản như sau:

          “Điều 13. Vi phạm quy định của Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước

          […]4. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau:

a) Không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn, phòng ngừa, khắc phục           sự cố trong quá trình xả nước thải vào nguồn nước;

b) Xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí quy định trong giấy           phép;[…]”

Vậy, căn cứ theo quy định trên, công ty X có thể bị xử phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 7 Điều 13 Nghị định 142/2013/NĐ-CP, công ty X còn buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước trong trường hợp hành vi vi phạm trên gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng và số lượng nguồn nước.

Tình huống 5: Doanh nghiệp H đã được UBND tỉnh T cấp Giấy phép khai thác khoáng sản trong khu vực X, thời hạn 10 năm (từ tháng 10/2005 đến tháng 10/2015). Sau khi hết hiệu lực của Giấy phép khai thác khoáng sản, doanh nghiệp H đã lập đề án đóng cửa mỏ khoáng sản trình UBND tỉnh T và đã được phê duyệt. Theo đề án, khi đóng cửa mỏ khoáng sản, Doanh nghiệp H sẽ thực hiện các công việc nhằm đưa khu vực khai thác trở lại trạng thái an toàn: phá hỏa toàn phần hoặc đưa vật liệu chèn lấp từ mặt đất xuống khu vực kết thúc khai thác, xử lý các đường lò thông gió, đường lò vận chuyển,....Tuy nhiên, sau khi đóng cửa mỏ khoáng sản, doanh nghiệp H đã không thực hiện các biện pháp này. Hỏi, hành vi của doanh nghiệp H có vi phạm pháp luật không? Xử phạt như thế nào?

Trả lời:

Điểm i khoản 2 Điều 55 Luật khoáng sản năm 2010 quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản như sau:

“[…] 2. Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có các nghĩa vụ sau đây:

i) Đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường và đất đai khi Giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực; […]”

Như vậy, sau khi Giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực, doanh nghiệp H có nghĩa vụ đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường và đất đai. Doanh nghiệp H đã thực hiện đúng trình tự về việc trình đề án đóng cửa mỏ và đã được phê duyệt. Tuy nhiên, việc không thực hiện các hành vi nhằm đưa khu vực khai thác trở lại trạng thái an toàn: phá hỏa toàn phần hoặc đưa vật liệu chèn lấp từ mặt đất xuống khu vực kết thúc khai thác, xử lý các đường lò thông gió, đường lò vận chuyển,...là vi phạm nghĩa vụ phục hồi môi trường, đất đai khi Giấy phép khai thác khoáng sản hết hiệu lực. Hành vi vi phạm quy định về đóng cửa mỏ khoáng sản bị xử phạt theo quy định tại Điều 38 Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản như sau:

“Điều 38. Vi phạm quy định về đóng cửa mỏ khoáng sản

[…] 2. Phạt tiền đối với hành vi không thực hiện các giải pháp đưa khu vực khai thác về trạng thái an toàn, phục hồi đất đai xác định trong đề án đóng cửa mỏ khoáng sản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cụ thể như sau:

b) Từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trừ trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này; […]”

Như vậy, theo quy định của điều này, Doanh nghiệp H bị phạt từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.

Ngoài ra, theo quy định tại điệm a khoản 5 điều 38 Nghị định 142/2013/NĐ-CP thì doanh nghiệp X buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện đầy đủ các giải pháp đưa khu vực khai thác về trạng thái an toàn, phục hồi đất đai theo đề án đóng cửa mỏ đã được UBND tỉnh phê duyệt.

Tình huống 6: Gia đình anh L sinh sống ở Xã B từ năm 2001 song không có bất kỳ giấy tờ nào chứng tỏ anh có quyền sử dụng đối với mảnh đất mà gia đình đang sinh sống. Trong khi đó các hộ dân xung quan đều đã được cấp sổ đỏ. Tháng 5/2015 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thu hồi mảnh đất của gia đình anh L cùng một số hộ dân xung quanh để làm dự án mở đường liên tỉnh. Được biết từ tháng 5/2015 trở về trước toàn bộ xã B là khu vực đã được quy hoạch ổn định và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Khi bị thu hồi đất, hàng xóm của anh L có sổ đỏ và đều đã được nhận bồi thường về đất. Anh L băn khoăn rằng mảnh đất của gia đình anh không có sổ đỏ, liệu anh có được bồi thường khi đất bị thu hồi hay không?

          Theo khoản 1Điều 13, Nghị định 47/2014 quy định một số trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất song vẫn được bồi thường khi đất bị thu hồi như sau:

“ Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai, các Điều 20, 22, 23, 25, 27 và 28 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất.”

Đồng thời tại Khoản 2, Điều 101, Luật Đất đai năm 2013 quy định:

“ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”

Như vậy hộ nhà anh L vẫn có thể được nhận bồi thường khi bị thu hồi đất nếu có xác nhận của UBND xã B rằng gia đình anh L đã sinh sống ổn định trên mảnh đất từ năm 2001, đất mà gia đình anh đang sinh sống không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt của xã B.

Tình huống 7: Bà N là công chức nhà nước. Năm 2003 gia đình bà được cơ quan có thẩm quyền cho thuê một căn nhà cấp 4 ở gần đường của thị xã để làm nơi ở. Trong quá trình sinh sống tới nay gia đình chị đã 3 lần đầu tư kinh phí để nâng cấp căn nhà đang xuống cấp, bao gồm sửa mái ngói, sửa bếp, lát sàn gạch …. Mỗi lần sửa chữa với kinh phí 20 triệu đồng. Tháng 1 năm 2015 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thu hồi căn nhà cấp 4 mà gia đình bà B đang sinh sống để làm dự án mở đường. Bà B băn khoăn liệu mình có được nhà nước bồi thường kinh phí đã bỏ ra để sửa chữa, nâng cấp nhà hay không?

          Theo  Khoản 1, Điều 14, Nghị định 47/2014 quy định:

Người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước (nhà thuê hoặc nhà do tổ chức tự quản) nằm trong phạm vi thu hồi đất phải phá dỡ, thì người đang thuê nhà không được bồi thường đối với diện tích nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và diện tích cơi nới trái phép, nhưng được bồi thường chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp; mức bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.”

          Như vậy, gia đình chị Trần Thị Q thuộc diện được bồi thường đối với chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp căn nhà mà chị đang ở.”

Tình huống 8: Gần nhà tôi có một khu chăn nuôi gia súc tập trung. Khu chăn nuôi thường xuyên xả rác và chất thải ra đường cống chung của bà con lối xóm, gây tắc nghẽn cống và mùi hôi thối, ô nhiễm môi trường. Bà con nhiều lần nói chuyện phải trái với gia đình này nhưng họ vẫn tiếp tục tái diễn. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về hành vi gây ô nhiễm môi trường này.

Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì việc xả chất thải chưa được xử lý  vào môi trường là một trong nhưng hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Cụ thể tại  Khoản 5 Điều 7 Luật bảo vệ môi trưởng năm 2014 quy định như sau: “Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí.”

          Đồng thời, Khu chăn nuôi tập trung phải có phương án bảo vệ môi trường, cụ thể theo Khoản 3 Điều 6 Luật bảo vệ môi trưởng năm 2014 quy định như sau:

“ Khu chăn nuôi tập trung phải có phương án bảo vệ môi trường và đáp ứng yêu cầu sau:

a) Bảo đảm vệ sinh môi trường đối với khu dân cư;

b) Thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải;

c) Chuồng, trại phải được vệ sinh định kỳ; bảo đảm phòng ngừa, ứng phó dịch bệnh;

d) Xác vật nuôi bị chết do dịch bệnh phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại và vệ sinh phòng bệnh”.

Tình huống 9. Tháng 10/2015, công ty trách nhiệm hữu hạn T là chủ dự án xây dựng cơ sở sản xuất và gia công các sản phẩm may mặc.  Trong qua trình sản xuất công ty phải sử dụng thuốc nhuộm quần áo và chất tẩy trắng.  Công ty trách nhiệm hữu hạn T nhận được thông báo cần phải thực hiện đánh giá tác động môi trường. Vậy xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

          Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014 và Điều 12 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường thì công ty trách nhiệm hữu hạn T phải thực hiện đánh giá tác động môi trường cụ thể như sau::

Công ty trách nhiệm hữu hạn T có trách nhiệm tự thực hiện hoặc thuê tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác động môi trường theo quy định tại Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện đánh giá tác động môi trường và các thông tin, số liệu được sử dụng trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.

Tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác động môi trường chịu trách nhiệm trước chủ dự án và trước pháp luật về kết quả thực hiện đánh giá tác động môi trường và các thông tin, số liệu do mình tạo lập trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.

 Trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường, Công ty trách nhiệm hữu hạn T phải tiến hành tham vấn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thực hiện dự án, các tổ chức và cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý của các đối tượng liên quan được tham vấn để hạn chế thấp nhất tác động bất lợi của dự án đến môi trường tự nhiên đa dạng sinh học và sức khỏe cộng đồng.

 Việc tham vấn ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án thực hiện theo quy trình sau đây:

+ Chủ dự án gửi báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án kèm theo văn bản đề nghị cho ý kiến;

+ Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp bởi dự án có văn bản phản hồi trong thời hạn tối đa mười lăm (15) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của chủ dự án, hoặc không cần có văn bản phản hồi trong trường hợp chấp thuận việc thực hiện dự án.

+ Việc tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án được tiến hành dưới hình thức họp cộng đồng dân cư do chủ dự án và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án đồng chủ trì với sự tham gia của những người đại diện cho Ủy ban mặt trận Tổ quốc cấp xã, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ dân phố, thôn, bản được Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập. Ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc họp phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên bản họp cộng đồng.

Tình huống 10: Cách đây 2 năm gần cánh đồng lúa của xã C xuất hiện một cơ sở sản xuất thức ăn gia súc của Công ty M. Được biết Công ty M không hệ có hệ thống sự lý nước thải, toàn bộ nước thảo của công ty đều xả thắng ra con kênh nơi bà con hay dùng hàng ngày múc nước vào đồng gây ảnh hưởng đến năng suất lúa, làm năng suất lúa giảm hơn so với mọi năm. Xin hãy cho biết hành vi của công ty M có vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường hay không?

Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: “ Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.”

          Đồng thời tại khoản 5 Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường 2014  quy định “Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực môi trường.


IV. CÁC TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM

Tình huống 1: Cửa hàng chả lụa T là cửa hàng làm giò chả có tiếng và lâu đời ở Hà Nội. Một ngày cửa hàng có thể tiêu thu hàng chục tạ thịt lợn. Tuy nhiên, thời gian gần đây cạnh cửa hàng T xuất hiện một siêu thị lớn làm ảnh hưởng tới doanh thu của cửa hàng. Để thu hút trở lại khách hàng, cửa hàng quyết định giảm giá bán tất cả loại giò chả của cửa hàng. Do cửa hàng giảm giá cao nên đã thu hút được một lượng lớn người mua. Nhưng không may, trong một lần kiểm tra, thanh tra y tế Hà Nội phát hiện cửa hàng T đã sử dụng thịt lợn chưa qua kiểm tra vệ sinh thú y để làm giò chả nhằm giảm chi phí sản xuất. Tại thời điểm phát hiện, số thịt lợn vi phạm có giá trị lên đến 40 triệu đồng. Thanh tra y tế đã lập biên bản xử phạt đối với cửa hàng T.

Bình luận

Trường hợp sử dụng thịt lợn chưa qua kiểm tra vệ sinh thú y theo quy định để làm giò chả của cửa hàng T là hành vi vi phạm quy định về sử dụng nguyên liệu thực phẩm trong sản xuất, chế biến thực phẩm theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP

Theo quy định mức phạt tiền đối với cá nhân có hành vi vi phạm là bằng 80% đến 100% tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm và mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân có cùng hành vi, do đó cửa hàng T sẽ bị phạt tiền bằng 160% đến 200%  tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm tức là từ 64 đến 80 triệu đồng do số thịt lợn vi phạm có tổng giá trị là 40 triệu đồng. Ngoài ra, cửa hàng T còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thực hiện kiểm tra vệ sinh thú y đối với số thịt lợn trên theo điểm a khoản 9 Điều 5 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.

Tình huống 2: Doanh nghiệp A kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất nước giải khát. Là một doanh nghiệp có tiếng trên thị trường, đặc biệt là sản phẩm nước ép hoa quả rất được người tiêu dùng ưa chuộng vì độ ngọt và màu sắc tươi mới. Tuy nhiên do sơ sót trong quá trình quản lý, sử dụng hóa chất tạo màu, doanh nghiệp A đã để quá thời hạn sử dụng của lô hóa chất tạo màu sử dụng cho sản phẩm nước ngọt của mình. Sự việc đã bị thanh tra phát hiện và lập biên bản xử lý.

Bình luận:

Trường hợp của doanh nghiệp A do đã sử dụng hóa chất tạo màu được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến nước ngọt nhưng để quá thời hạn sử dụng nên hành vi của doanh nghiệp A thuộc hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.

Theo đó hành vi của doanh nghiệp A sẽ bị phạt tiền với mức gấp 02 lần mức phạt của cá nhân có cùng hành vi vi phạm được, theo đó là từ 40.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp A sẽ phải chịu hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm từ 02 tháng đến 04 tháng và phải tiêu hủy số hóa chất quá thời hạn sử dụng nêu trên.

Tình huống 3: Ông A là chủ một hồ đẩm chuyên nuôi tôm bán cho các thương lái. Năm 2015, do giá thành thức ăn tôm tăng nên nếu tiếp tục nuôi tôm như thông thường, trừ chi phí bỏ ra, tiền lãi sẽ không được bao nhiêu. Được người bạn mách cho việc tiêm tạp chất vào tôm nguyên liệu sẽ giúp tăng trọng lượng của tôm, tôm sẽ đẹp và bán được giá hơn, ông A đã ra thực hiện bơm, chích tạp chất vào 150 kg tôm nguyên liệu mới nhập về. Trong quá trình thực hiện, hành vi của ông A đã bị cơ quan chức năng bắt quả tang.

Bình luận:

Việc bơm tạp chất vào tôm của ông A thuộc hành vi đưa tạp chất vào thủy sản có mức phạt tiền được quy định tại điểm a khoản 5 Điều 16 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau: “Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi trực tiếp đưa tạp chất vào thủy sản;”. Ngoài ra, ông A còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc loại bỏ tạp chất đối với 150kg tôm bị tiêm tạp chất, trường hợp không loại bỏ được tạp chất thì buộc tiêu hủy đối với số tôm trên (điểm b khoản 9 Điều 16).

Tình huống 4:  Chị M là chủ một cửa hàng ăn nhanh chuyên phục vụ ăn sáng cho công nhân tại khu công nghiệp X. Do mặt bằng cửa hàng nhỏ lại chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực ăn uống nên việc bố trí khu vực chế biến thức ăn và nơi bày bán thức ăn còn nhiều điểm chưa hợp lý. Khu vực chế biến thực ăn phải đặt sát khu vực vệ sinh của cửa hàng. Trong một lần bị thanh tra kiểm tra, cửa hàng chị đã bị xử phạt 1.000.000 đồng do vi phạm quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong kinh doanh dịch vụ ăn uống thuộc loại hình cửa hàng ăn uống, cửa hàng, quầy hàng kinh doanh thức ăn ngay, thực phẩm chín. Hành vi được xác định là do cửa hàng chị không có bàn bày thức ăn cao hơn mặt đất theo quy định và sử dụng khu vực chế biến, bảo quản, nơi ăn không bảo đảm vệ sinh.

Việc xử phạt của thanh tra đã đúng hay chưa? Trường hợp có người bị ngộ độc sau khi sử dụng thức ăn của cửa hàng chị thì cửa hàng chị M sẽ bị xử lý như thế nào?

Bình luận:

Việc xử phạt của thanh tra đối với cửa hàng chị M là chính xác, theo đúng quy định tại điểm a và c khoản 1 Điều 20 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau:

1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Bày bán thức ăn ngay, thực phẩm chín không có thiết bị bảo quản hợp vệ sinh, không có bàn hoặc giá cao hơn mặt đất theo quy định;

c) Sử dụng khu vực chế biến, bảo quản, nơi ăn không bảo đảm vệ sinh hoặc có côn trùng, động vật gây hại;”

Trường hợp có người bị ngộ độc sau khi sử dụng thức ăn của cửa hàng chị M, thì cửa hàng chị sẽ phải chịu xử lý theo điểm đ khoản 2 Điều 20 đối với hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến ngộ độc thực phẩm. Hành vi này có mức xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng và phải chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm do sử dụng thực ăn của cửa hàng chị.

Ngoài ra trong trường hợp cửa hàng chị tiếp tục để xảy ra trường hợp ngộ độc khác thì sẽ bị đình chỉ hoạt động kinh doanh ăn uống từ 01 tháng đến 03 tháng.

Tình huống 5: Năm 2015, công ty X thuê công ty Y là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống cung cấp các suất ăn sẵn cho nhân viên. Qua một thời gian sử dụng dịch vụ của công ty Y, công ty X đã nhận được nhiều phản ánh từ nhân viên là suất ăn không bảo đảm vệ sinh. Công ty X đã gửi các phản ánh này đến công ty Y và yêu cầu công ty Y phải cải thiện chất lượng bữa ăn và nâng cao công tác vệ sinh bảo đảm an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, chất lượng vẫn không được cải thiện và đã xuất hiện một số nhân viên sau khi sử dụng suất ăn của công ty Y có dấu hiệu ngộ độc. Công ty X đã báo cáo cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý.

Bình luận:

Trong trường hợp này, nếu việc ngộ độc của nhân viên công ty X sau khi sử dụng suất ăn của công ty Y được các cơ quan chức năng xác định là do hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm của công ty Y gây nên thì công ty Y sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng (theo khoản 4 Điều 21 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP) và bị đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống từ 01 tháng đến 03 tháng trong trường hợp tiếp tục để xảy ra trường hợp ngộ độc do kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm của mình gây nên. Ngoài ra, công ty Y phải chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm 

Trong trường hợp, các cơ quan chức năng xác định công ty Y không có hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến việc ngộ độc thì công ty sẽ chỉ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 21 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi có cơ sở chế biến suất ăn sẵn, căng tin kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể, bếp ăn, nhà hàng ăn uống của khách sạn, khu nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn uống xảy ra ngộ độc thực phẩm.”

Tình huống 6: Anh A là người kinh doanh nem chua rán tại cổng trường tiểu học X. Trong quá trình chế biến thực ăn, anh A nhiều lần dùng tay trực tiếp cầm đề rán nem chua. Hành vi này của anh A có vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm hay không và chế tài xử lý đối với hành vi này?

Bình luận

Việc sử dụng tay trực tiếp tiếp xúc với nem chua của anh A là hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm quy định tại điểm e khoản 1 Điều 22 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: “Dùng tay tiếp xúc trực tiếp với thức ăn”.

Hành vi này của anh A có mức xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng theo khoản 1 Điều 22 Nghị định sô 178/2013/NĐ-CP.

Tình huống 7: Ngày 20/5/2014, anh X được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm cho cơ sở nấu rượu thuộc phạm vi quản lý của huyện Y. Ngày 20/7/2017, thanh tra ngành công thương phát hiện giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm của cơ sở nấu rượu của anh X đã hết thời hạn nhưng anh X chưa làm thủ tục cấp lại. Thanh tra đã lập biên bản để xử phạt đối với hành vi này.

Bình luận:

Việc anh X để giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm hết hạn nhưng chưa làm thủ tục cấp lại mà vẫn tiếp tục sử dụng là hành vi vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm. Do cơ sở sản xuất rượu của anh X thuộ phạm vi quản lý của cấp huyện nên mức xử phạt đối với hành vi này của anh X được quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.

Căn cứ theo Điều 7 Thông tư số 58/2014/TT-BCT ngày 22/12/2014 quy định cấp, thu hồi giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ công thương thì hiệu lực của giấy chứng nhận là 03 năm kể từ ngày cấp. Như vậy, thời điểm giấy chứng nhận của cơ sở anh X là vào ngày 20/5/2017, do đó thời điểm phát hiện ra hành vi vi phạm (20/7/2017), giấy chứng nhận đã hết thời hạn được 02 tháng vì thế mức xử phạt đối với hành vi này của anh X được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 24 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau: “b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã hết thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng;

Tình huống 8: Hải quan tỉnh X vừa thu giữ một lô hàng gồm 1 tấn táo có xuất xử từ Mỹ được công ty B nhập khẩu vào Việt Nam để tiêu thụ. Lý do là trong quá trình kiểm tra, hải quan đã phát hiện một số giấy tờ do công ty B cung cấp là giả mạo. Giấy tờ giả mạo được xác định là bản thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khẩu. Vậy theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, công ty B sẽ bị xử lý như thế nào? 

Trả lời:

Do công ty B đã cung cấp và sử dụng bản thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khảo giả nên căn cứ vào khoản 4 Điều 25 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP thì công ty B sẽ phải chịu mức phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng  (mức phạt gấp 02 lần mức phạt cho cá nhân quy định tại khoản 4 Điều 25).

Ngoài ra, công ty B phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là buộc tiêu hủy giấy tờ giả đã sử dụng là bản thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khảo.

Tình huống 9: Trong một lần tổng kiểm tra các cơ sở kinh doanh ăn uống trên địa bàn thành phố Y, thanh tra đã phát hiện một lượng lớn heo đã bị ôi thiu, biến đổi màu sắc được cơ sở giết mổ Z nhập về để chế biến bán lại cho các tiểu thương tại các chợ trong thành phố. Qua đánh giá ban đầu, số lượng thịt heo bị ôi thiu có giá trị khoảng 50 triệu đồng. Với hành vi vi phạm này, cơ sở Z sẽ bị xử lý như thế nào

Trả lời:

Hành vi chế biến và bán lại thịt heo đã bị ôi thiu, biến đổi  màu sắc của cơ sở Z đã vi phạm quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh động vật,sản phẩm động vật tươi sống sử dụng làm thực phẩm căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 17 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: “a) Kinh doanh thực phẩm tươi sống có nguồn gốc động vật trên cạn bị ôi thiu, biến đổi màu sắc, mùi vị;

Theo đó, mức xử phạt đối với hành vi này của tổ chức là bằng 200% đến 240% tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với một trong các hành vi sau đây nhưng số tiền phạt tối đa không vượt quá 200.000.000 đồng. Do giá trị số thịt heo bị ôi thiu được phát hiện tại thời điểm vi phạm được định giá là khoảng 50 triệu đồng nên số tiền cơ sở X phải nộp vào khoảng 100 triệu đồng đến 120 triệu đồng. Ngoài ra, cơ sở X bị buộc tiêu hủy số thịt heo vi phạm.

Tình huống 10: Trong quá trình kiểm tra nhà mày bánh kẹo X, thanh tra nghi ngờ một số mẫu bánh kẹo của doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thanh tra đã yêu cầu doanh nghiệp X cung cấp đầy đủ các giầy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, chất lượng… Tuy nhiên, doanh nghiệp X tỏ ý không hợp tác và nhiều lần từ chối việc chuyển giao các giấy tờ theo yêu cầu lấy lý do là giầy tờ đã bị thất lạc. Vậy trong trường hợp này, thanh tra có thể xử lý đối với doanh nghiệp X hay không?

Trả lời:

Trường hợp doanh nghiệp X từ chối không cung cấp thông tin về các mẫu bánh kẹo theo yêu cầu của thanh tra thì có thể xử lý doanh nghiệp X đối với hành vi vi phạm quy định về thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm theo điểm a khoản 1 Điều 27 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau: “a) Không cung cấp thông tin về an toàn thực phẩm theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;”. Mức xử phạt đối với hành vi này của doanh nghiệp là từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

Ngoài ra, trường hợp thanh tra xác minh được số bánh kẹo này vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm thì có thể tiếp tục xử phạt doanh nghiệp theo những quy định tương ứng với hành vi vi phạm.

Tình huống 11: Cơ sở sản xuất giò lụa Ngọc Mai lâu nay nổi tiếng trên địa bàn huyện X với sản phẩm giò lụa rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, đã 2 tuần nay, tình hình kinh doanh của cơ sở này rơi vào tình trạng ế ẩm, sản phẩm vẫn như vậy mà người đến mua thì thưa thớt. Qua thăm dò tìm hiểu nguyên nhân thì được biết, người dân địa phương rỉ tai nhau việc cơ sở sản xuất Ngọc Mai vi phạm pháp luật vì sử dụng 02 nhân công mắc bệnh truyền nhiễm ngoài ra nên người dân không muốn đến mua hàng nữa. Tuy nhiên, khi được hỏi, bà Mai chủ cơ sở này cho biết, vì cơ sở đang rất thiếu người làm, mặt khác truyền nhiễm ngoài da là bình thường, quá trình làm có dùng găng tay nên việc sử dụng 02 nhân công này không thể coi là vi phạm. Quan điểm của bà Mai bị phản ứng rất mạnh mẽ

Trả lời:

Theo khoản 9, Điều 5, Luật An toàn thực phẩm 2010, một trong những hành vi bị cấm là : Người mắc bệnh truyền nhiễm tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm”.

Căn cứ quy định trên, việc cơ sở Ngọc Mai sử dụng 02 nhân công bị mắc truyền nhiễm 1 2: Ngay khi bị cơ quan chức năng đến kiểm tra và kết luận lô hàng mà nhà máy thực phẩm đông lạnh ABC vừa xuất ra thị trường có sử dụng một số loại hoá chất tuy được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất chế biến thực phẩm nhưng không có thời hạn sử dụng, đại diện nhà máy ABC vẫn nhất mực cho rằng, nhà máy ABC không hề sai phạm vì hoá chất không có thời hạn sử dụng tức là được sử dụng mãi mãi. Tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn tiến hành xử phạt, nhiều công nhân nhà máy cho rằng điều này là không đúng với quy định pháp luật.

Trả lời:

Việc cơ quan chức năng xử phạt hành vi vi phạm của nhà máy ABC là hoàn toàn chính xác.

Theo Điều 7, Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:

 “1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng.”

Như vậy, hành vi của nhà mát ABC sử dụng một số loại hoá chất tuy được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất chế biến thực phẩm nhưng không có thời hạn sử dụng là vi phạm pháp luật và như vậy phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Tình huống 13: Từ khi khai trương đến nay, nhà hàng Linh Chi có doanh thu về dịch vụ ăn uống rất cao vì được đánh giá là đồ ăn ngon, giá cả phải chăng, phục vụ chu đáo và đã được cấp chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm nên khách hàng rất tin tưởng. Tuy nhiên, qua đợt kiểm tra của cơ quan chức năng, đã phát hiện nhà hàng Linh Chi sử dụng Giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm giả. Khi được biết thông tin, nhiều khách hàng rất bức xúc, cho rằng phải xử phạt thật mạnh tay, tuy nhiên, phần nhiều trong số họ không biết chính xác mức xử phạt đối với hành vi này là như thế nào?

Trả lời:

Theo khoản 1, Điều 24, Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:

“1. Xử phạt đối với hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống vi phạm quy định về giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của cấp xã theo một trong các mức sau đây:

a) Phạt cảnh cáo đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã hết thời hạn dưới 01 tháng;

b) Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã hết thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng;

c) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định hoặc có nhưng đã hết thời hạn trên 03 tháng;

d) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm;

đ) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm giả.”

Như vậy, trường hợp của nhà hàng Linh Chi được quy định tại điểm đ, vì vậy mức phạt cụ thể là từ 2,000,000 đồng đến 3,000,000 đồng.

Tình huống 14: Chị Nguyễn Thị A là người rất thích các món ăn đường phố, chị thường xuyên đến quán bún ốc của bà Lê Thị M để thưởng thức món ăn này. Tuy nhiên, mấy lần gần đây, chị đến quán thì thấy quán không còn mở cửa nữa, nghe người dân xung quanh nói, bà M quyết định đóng cửa quán một thời gian vì vừa mới bị kiểm tra và phát hiện không đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Chị A vẫn băn khoăn không hiểu tại sao quán của bà M không đủ điều kiện an toàn vì theo chị bún ốc ở quán bà M rất ngon.

Trả lời:

Theo Điều 32, Luật an toàn vệ sinh thực phẩm 2010, điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với nguyên liệu, dụng cụ ăn uống, chứa đựng thực phẩm và người kinh doanh thức ăn đường phố là:

“1. Nguyên liệu để chế biến thức ăn đường phố phải bảo đảm an toàn thực phẩm, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

2. Dụng cụ ăn uống, chứa đựng thực phẩm phải bảo đảm an toàn vệ sinh.

3. Bao gói và các vật liệu tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm không được gây ô nhiễm và thôi nhiễm vào thực phẩm.

4. Có dụng cụ che nắng, mưa, bụi bẩn, côn trùng và động vật gây hại.

5. Có đủ nước đạt quy chuẩn kỹ thuật phục vụ việc chế biến, kinh doanh.

6. Tuân thủ quy định về sức khoẻ, kiến thức và thực hành đối với người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm”.

Quán của bà M bị phát hiện và kiểm tra không đủ điều kiện an toàn thực phẩm vì có thể không đảm bảo đầy đủ các yêu cầu trên.

Tình huống 15: Gần đến dịp tết nguyên đán, cơ quan chức năng huyện X tiến hành đợt kiểm tra đột xuất với một loạt cơ sở chế biến thực phẩm trên địa bàn huyện. Tại cơ sở chế biến thịt hộp của anh Trần Văn K, sau khi truy xuất về nguồn gốc đối với thịt lợn mà cơ sở của anh K sử dụng, cơ quan chức năng quyết định tiến hành xử phạt với lí do hồ sơ chứng minh về nguồn gốc của anh không đầy đủ, anh K băn khoăn không hiểu hành vi vi phạm của mình được quy định cụ thể ở đâu và 

Trả lời:

Theo Điều 30 Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:

“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi không lưu giữ hoặc lưu giữ không đầy đủ hồ sơ về nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vật liệu bao gói, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm và các tài liệu khác về quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Không thông báo lô sản phẩm không bảo đảm an toàn;

b) Không báo cáo số lượng sản phẩm của lô sản phẩm không bảo đảm an toàn, tồn kho thực tế và đang lưu thông trên thị trường; kế hoạch thu hồi và các biện pháp xử lý.

3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện thu hồi, xử lý không theo đúng yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn.

4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không tiến hành thu hồi, thực hiện các biện pháp xử lý cần thiết theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn.”

Như vậy hành vi vi phạm của cơ sở sản xuất thịt hộp của anh K được quy định tại khoản 1 điều này.   


V. TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC AN TOÀN GIAO THÔNG

Tình huống 1: Anh A đang điều khiển ô tô đến cơ quan. Do mải mê nghe điện thoại không để ý nhìn đường, anh A đã đâm phải một xe máy đi ngược chiều do anh B điều khiển. Khi thấy anh B ngã ra đường do quá lo sợ anh A đã điều khiển xe chạy trốn. Do khu vực này ít người qua lại nên phải hơn 30 phút sau mới có người phát hiện đưa anh B vào bệnh viện. Qua lời khai của anh B, công an đã xác minh thủ phạm gây ra tai nạn là anh A. Vậy trong trường hợp này, theo các quy định về an toàn giao thông, anh A sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Trong trường hợp này, việc anh A gây tai nạn và lái xe bỏ trốn được coi là hành vi gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn quy định tại điểm b khoản 6 Điều 5 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, anh A sẽ bị phạt tiền từ  4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng.

Trong trường hợp, xác định được việc gây tai nạn của anh A là do không chú ý quan sát và điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định đối với đoạn đường đó khi gây tai nạn, anh A còn phải bị xử lý theo điểm c khoản 7 Điều 5 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP với mức phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.

Ngoài việc bi phạt tiền, anh A còn bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe ô tô 02 tháng theo quy định tại điểm c khoản 11 Điều 5 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP

Tình huống 2: Anh A là người thích tụ tập với bạn bè để ăn nhậu. Trong một lần tụ tập bạn bè mừng tân gia của một người bạn trong nhóm, do uống khá nhiều nên dù tửu lượng cao, A cũng cảm thấy chếnh choáng. A đã xin ngủ nhờ lại nhà B cho tỉnh rượu. Sau khi ngủ lại khoảng 1 tiếng thấy mình đã bớt say, A liền lấy xe máy chạy về nhà. Khi lưu thông trên đường do còn hơi rượu trong người, A đã cởi mũ bảo hiểm đi cho thoáng. Đến ngã tư gần nhà, A bị công an giao thông giữ lại để xử phạt vì hành vi không đội mũ bảo hiểm. Thấy A có hơi rượu, công an đã yêu cầu A cho thử nồng độ cồn nhưng A không chấp hành yêu cầu do bản thân đã tỉnh rượu. Tuy nhiên, sau khi áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, công an đã xác định nồng độ cồn của A là 0,3 miligam/1 lít khí thở. Vậy theo quy định của pháp luật, trường hợp A sẽ được xử lý như thế nào?

Bình luận:

Trong trường hợp này A đã thực hiện 03 hành vi vi phạm pháp luật giao thông cụ thể như sau:

- Hành vi thứ nhất, không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy (điểm i khoản 3 Điều 6 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP)

- Hành vi thứ hai, không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người kiểm soát giao thông (điểm b khoản 6 Điều 6 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP);

- Hành vi thứ ba, điều khiển xe trên đường mà có nồng độ cồn trong hơi thở vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở (điểm b khoản 5 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).

Đối với mỗi hành vi trên, A sẽ có mức xử phạt tương ứng cụ thể như sau:

- Đối với hành vi không đội mũ bảo hiểm, anh A sẽ bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng

- Đối với hành vi không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người kiểm soát giao thông, anh A sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Ngoài ra, anh A sẽ bị tước quyền sử dụng Giấy phép lai xe 02 tháng đối với hành vi này.

- Đối với hành vi điều khiển xe trên đường mà có nồng độ cồn trong hơi thở vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở, anh A sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Ngoài ra, anh A sẽ bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 01 tháng.

Tình huống 3: Sau khi kết thúc vụ xuân, chị  C định đem thóc ra sân phơi khô để kịp đem vào trong nhà bảo quản. Tuy nhiên do số lượng lớn, nên nếu chỉ phơi trong nhà thì sẽ mất rất nhiều thời gian. Được một số người mách, con đường liên huyện buổi tối ít người qua lại, mặt đường lại rộng rất tiện cho việc phơi thóc, chị liền đem thóc ra ngoài đường phơi . Sau khi đem thóc ra phơi được một hôm, chị bi công an xã gọi lên lập biển bản xử phạt vì hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ. Số tiền xử phạt chị là 100.000 đồng.

Bình luận

Hành vi phơi thóc ra đường liên huyện của chị đã vi phạm điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP: “a) Phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên đường bộ

Theo đó mức xử phạt đối với cá nhân thực hiện hành vi này là phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Như vậy, việc xử phạt của công an xã đối với hành vi của chị là chính xác và đúng theo quy định của pháp luật.

Tình huống 4: Anh A có một cửa hàng ăn nằm mặt đường phố Nguyễn Thái Học. Do lượng khách ra vào quán đông, quán lại không có chỗ gửi xe, anh A quyết định lấy 15 m2 hè phố trước cửa quán làm nơi để xe cho khách. Vậy theo quy định của pháp luật, hành vi này của anh A có vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông hay không? Được biết việc để xe của quán anh A chưa được các cấp có thẩm quyền cho phép.

Bình luận:

Hành vi chiếm dụng 15 m2 hè phố làm nơi trông, giữ xe của anh A mà chưa được các cấp có thẩm quyền cho phép là hành vi vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông được quy định tại điểm  b khoản 5 Điều 12 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP: b) Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố từ 10 m2 đến dưới 20 m2 làm nơi trông, giữ xe

Theo đó, đối với hành vi này anh A sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 và anh A còn phải buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của hè phố đã bị thay đổi do việc trông, giữ xe của mình gây nên.

Tình huống 5: Em Nguyễn Văn B là học sinh trường lớp 12 trường trung học phổ thông X. Do là học sinh cuối cấp, chuẩn bị thi đại học nên bố mẹ quyết định mua cho B một chiếc xe máy để tiết kiệm thời gian và thuận tiện cho việc đi lại. Tuy nhiên, trong một lần tham gia giao thông, do thấy B mặc đồng phục trường cấp 3, công an giao thông đã giữ B lại để kiểm tra giấy tờ thì phát hiện B mới được 17 tuổi 6 tháng. Ngoài ra, khi kiểm tra B có mang theo giấy đăng ký xe nhưng lại không mang theo giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Vậy theo quy định của pháp luật, trường hợp của B sẽ được xử lý như thế nào? Được biết xe mô tô mà B điều khiển có dung tích xi lanh dưới 50 cm3

Bình luận:

Trường hợp này, do B điều khiển xe máy có dung tích xi lanh dưới 50 cm3 khi đã trên 16 tuổi (17 tuổi 6 tháng) nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ năm 2008 thì B được phép lái loại xe gắn máy. Vì thế hành vi của B không vi phạm các quy định về trật tự, an toàn giao thông.

Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về giấy phép lái xe (Điều 59 Luật giao thông đường bộ) thì không có giấy phép lái xe cho xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 50 cm3, do đó không thể xử phạt B do không có giầy phép lái xe.

Tuy nhiên căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP quy định: 2. Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực;

Do đó, việc B không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hành vi vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao thông và sẽ bị xử phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng.

Tình huống 6: Trần Văn Q và Nguyễn Văn T là hai thanh niên sinh sống tại quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Chiều ngày 12/12/2014 hai thanh niên này đèo nhau trên một chiếc xe máy Honda Wave. Đi tới phố Huế, Q ngồi sau thách T phi xe thật nhanh trên đường phố Huế lúc đó đang rất đông đúc. Nhận lời thách, T lập tức tăng tốc, bốc đầu xe và lạng lách trong dòng người trên phố. Chạy tới ngã tư phố Lý Thường Kiệt cắt phố Hàng Bài, hai thanh niên này bị cảnh sát giao thông đuổi kịp và chặn lại. Trong trường hợp trên, cảnh sát giao thông sẽ xử phạt hành chính đối với hai thanh niên trên theo mức nào?

Trả lời:

Khoản 7, điều 6, Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thong đường bộ và đường sắt quy định như sau:

“7. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Buông cả hai tay khi đang điều khiển xe; dùng chân điều khiển xe; ngồi về một bên điều khiển xe; nằm trên yên xe điều khiển xe; thay người điều khiển khi xe đang chạy; quay người về phía sau để điều khiển xe hoặc bịt mắt điều khiển xe;

b) Điều khiển xe lạng lách hoặc đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị;

c) Điều khiển xe chạy bằng một bánh đối với xe hai bánh, chạy bằng hai bánh đối với xe ba bánh;

d) Điều khiển xe thành nhóm từ 02 (hai) xe trở lên chạy quá tốc độ quy định.

Như vậy, hành vi của T và Q trong tình huống trên đã vi phạm điểm b và khoản c của khoản 7, điều 6 nêu trên. Mức phạt tối đa đối với hai thanh niên trên có thể lên tới 14 triệu đồng.

Tình huống 7: Chị Phạm Thị B là người trồng cây cảnh ở xã Văn Giang tỉnh Hưng Yên. Ngày 20/1/2015, vào dịp Tết Ất Mùi chị B cùng chồng đem cây quất cảnh lên ngã ba đường tỉnh lộ gần nhà bán. Chồng chị B nảy ra sáng kiến làm giá để cây theo tầng để đặt cây quất cảnh lên cao cho người đi đường nhìn thấy gian hàng của anh chị từ đằng xa. Tuy nhiên, giá đỡ cây quất cảnh quá cao làm cho dàn quất cảnh của anh chị khi để lên giá cao nhất đã che khuất biển báo giao thông cấm dừng đỗ xe cắm ở ngã ba đường. Cùng ngày hôm đó, cảnh sát Tống Văn H được cử làm nhiệm vụ tại ngã ba nơi anh, chị B bán quất cảnh. Thấy giá quất cảnh của anh, chị B như vậy, cảnh sát H sẽ xử trí như thế nào?

Trả lời:

Điều 11, Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thong đường bộ và đường sắt quy định:

Điều 11. Xử phạt các hành vi vi phạm khác về quy tắc giao thông đường bộ

1. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với cá nhân, từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên đường bộ;

b) Tập trung đông người trái phép, nằm, ngồi trên đường gây cản trở giao thông;

c) Đá bóng, đá cầu, chơi cầu lông hoặc các hoạt động thể thao khác trái phép trên đường giao thông; sử dụng bàn trượt, pa-tanh, các thiết bị tương tự trên phần đường xe chạy.

2. Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân, từ 400.000 đồng đến 800.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Họp chợ, mua, bán hàng hóa trên đường bộ ngoài đô thị;

b) Để vật che khuất biển báo, đèn tín hiệu giao thông.

3. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Sử dụng đường bộ trái quy định để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội;

b) Dựng cổng chào hoặc các vật che chắn khác trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ;

c) Treo băng rôn, biểu ngữ trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn giao thông đường bộ;

d) Đặt, treo biển quảng cáo trên đất của đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị;

đ) Không cứu giúp người bị tai nạn giao thông khi có yêu cầu;

e) Đổ rác, xả nước thải ra đường phố, hầm đường bộ không đúng nơi quy định, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều này, Khoản 5 Điều 20 Nghị định này.

          Theo điều 11, khoản 2, điểm b trên đây, hành vi để cây quất cảnh che khuất biển báo giao thông của anh, chị B đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ và có thể bị phạt từ 200.000 đồng – 400.000. Cảnh sát Nguyễn Văn H cần giải thích rõ hành vi vi phạm đó cho vợ chồng chị B và áp dụng các biện pháp xử phạt theo quy định.

Tình huống 8: Vợ chồng anh Trần Quyết T và chị Trương Thị M sinh sống trong làng H gần đường quốc lộ 1A. Do tình hình làm nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, từ đầu năm 2011, hai vợ chồng anh chị đã ra mép đường ngã 4 giao cắt giữa đường quốc lộ 1A và đường tỉnh lộ gần đó đặt sạp hàng bán bánh mỳ và đồ tạp hóa. Lâu ngày công việc bán hàng thuận lợi, đến đầu năm 2014, anh, chị quyết định xây cất một ngôi nhà cấp 4 bằng gạch ở nơi bán hàng để vừa bán hàng vừa làm nơi ở. Do ngã tư đó chưa có vỉa hè nên anh, chị xây nhà cấp 4 của mình ra sát mép đường để bán hàng cho tiện. Đến tháng 5/2014 công việc xây dựng hoàn tất. Ngay sau khi xây nhà xong, anh, chị bị cơ quan có thẩm quyền tới lập biên bản xử lý. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền cần xử lý vi phạm của vợ chồng anh T và chị M như thế nào?

Trả lời:

Điều 12, Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thong đường bộ và đường sắt quy định:

Điều 12. Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ

1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm c Khoản 3, Điểm e Khoản 4 Điều này.

2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với cá nhân, từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Sử dụng, khai thác tạm thời trên đất hành lang an toàn đường bộ vào mục đích canh tác nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an toàn công trình và an toàn giao thông;

b) Trồng cây trong phạm vi đất dành cho đường bộ làm che khuất tầm nhìn của người điều khiển phương tiện giao thông;

c) Chiếm dụng dải phân cách giữa của đường đôi làm nơi: Để xe; trông, giữ xe; bày, bán hàng hóa; để vật liệu xây dựng, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm a, Điểm d Khoản 4 Điều này.

3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a) Xây dựng nhà ở trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị;

b) Dựng lều quán, cổng ra vào, tường rào các loại, công trình tạm thời khác trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ, trừ các hành vi vi phạm quy định tại Điểm đ Khoản 4, Điểm a Khoản 5 Điều này;

c) Họp chợ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, bày, bán hàng hóa, sửa chữa xe, rửa xe, đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo, làm mái che trên lòng đường đô thị, hè phố hoặc thực hiện các hoạt động, dịch vụ khác trái phép trên lòng đường đô thị, hè phố gây cản trở giao thông, trừ các hành vi vi phạm quy định tại: Điểm d, Điểm đ, Điểm e, Điểm g Khoản 4; Điểm b Khoản 5; Điểm a Khoản 6 Điều này;

d) Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè phố dưới 05 m2 làm nơi trông, giữ xe.

Như vậy, việc xây nhà ở kiêm bán hàng của vợ chồng anh T và chị M đã vi phạm điều 12, khoản 3, điểm a. Cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành xử phạt hành vi vi phạm của anh, chị với mức phạt từ 2 triệu – 3 triệu đồng.

Tình huống 9: Lâm Văn T và Lò Văn Q là hai thanh niên đang không có nghề nghiệp ổn định ở Huyện K, Tỉnh H. Ngày 1/5/2015 hai thanh T và Q đi xe máy trong thị trấn, va chạm với anh Quàng Văn N. Hai bên cãi vã nhau một hồi rồi không ai chịu ai. Rút cục T và Q lao vào đánh anh N. Anh N cũng không chịu nên cũng lao vào đánh nhau với T và Q gây náo loạn cả một góc phố thị trấn. Rất may là lực lượng công an thị trấn đã có mặt kịp thời để khống chế và đưa cả ba thanh niên về trụ sở công an thị trấn để giải quyết. Công an thị trấn sẽ xử lý hành vi đánh nhau của ba thanh niên T, Q và N như thế nào?

Trả lời:

Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã  hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình quy định:

Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;

c) Thả rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.

2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;

h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.

3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;

d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;

đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế;

e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;

g) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hp pháp của tổ chức, cá nhân;

h) Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức;

i) Tập trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực cấm;

k) Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

l) Viết, phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, cá nhân;

m) Tàng trữ, vận chuyển “đèn trời”.

4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;

b) Sản xuất, nhập khẩu, buôn bán "đèn trời".”

          Như vậy, hành vi của T, Q và N đã vi phạm điểm a, khoản 2, điều 5 nói trên. Cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành phạt mỗi thanh niên mức phạt từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng vì hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng.

Tình huống 10: Nhà trung cư cao tầng M5 nằm trong khu đô thị mới Linh Trung, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Nhà M5 có 200 căn hộ được bố trí theo thiết kế 10 căn hộ/sàn. Ngày 30/6/2015, anh Nguyễn Văn T là chủ căn hộ mới mua tại nhà M5 tiến hành sửa chữa căn hộ của mình. Nội dung sửa chữa bao gồm phá 3 bức tường gạch bên trong căn hộ. Do muốn đẩy nhanh tiến độ, anh T đã giục thợ của mình dùng khoan phá bê tông để phá 3 bức tường xong trong ngày 30/6/2015. Công việc phá tường dự kiến tới tận 24h đêm mới kết thúc. Quá trình khoan phá tường gây ra tiếng ồn rất lớn khiến các hộ dân xung quan đều hết sức khó chịu. Một trong những người hàng xóm của anh T đã điện thoại phản ánh với cơ quan có thẩm quyền ở phường. 23h cùng ngày, khi quá trình khoan phá vẫn đang diễn ra, đại diện cơ quan có thẩm quyền có mặt và lập biên bản nhà anh T. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý hành vi vi phạm của anh T như thế nào?

           Trả lời:

          Điều 6, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã  hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình quy định:

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Gây tiếng động lớn, làm ồn ào, huyên náo tại khu dân cư, nơi công cộng trong khoảng thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau;

b) Không thực hiện các quy định về giữ yên tĩnh của bệnh viện, nhà điều dưỡng, trường học hoặc ở những nơi khác có quy định phải giữ yên tĩnh chung;

c) Bán hàng ăn, uống, hàng giải khát quá giờ quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: Dùng loa phóng thanh, chiêng, trống, còi, kèn hoặc các phương tiện khác để cổ động ở nơi công cộng mà không được phép của các cơ quan có thẩm quyền.”

          Như vậy, anh Nguyễn Văn T đã vi phạm quy định tại điểm a, khoản 1, điều 6 nói trên, cụ thể là đã gây tiếng ồn lớn trong khu dân cư vào sau 22h đêm. Cơ quan có thẩm quyền có thể xử phạt anh T từ 100.00 đồng đến 300.000 đồng.

 

 

 

Đăng nhận xét (0)
Mới hơn Cũ hơn