I. CÁC TÌNH HUỐNG VỀ HÌNH SỰ, MA TÚY, TỆ NẠN
XÃ HỘI
1. Tình
huống 1: B thấy chị H đeo hai nhẫn vàng ở ngón tay nên
T dùng gậy đánh vào sau gáy của chị H làm chị H ngất, sau đó B lấy hai chiếc
nhẫn vàng của chị H. Vậy B phạm tội gì?
Trả lời:
B đã có hành vi dùng vũ lực (dùng gậy đánh
vào đầu chị H) để nhằm chiếm đoạt tài sản (lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H)
và thực tế là B đã lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H, do đó B đã phạm tội cướp
tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi
dùng vũ lực. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi hành động dùng sức mạnh
vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ
thể của người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói,
dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém... Hành động tấn công này
có thể làm cho người bị tấn công bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc
bị chết nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể cho nạn nhân. Việc
dùng vũ lực là nhằm mục đích là làm cho người bị tấn công mất khả năng chống cự
nhằm để cướp tài sản. Việc dùng vũ lực được thực hiện ở cả hai phương thức đó
là phương thức bí mật (như: bắn lén lút, đánh vào sau gáy...) và phương thức
công khai (tấn công trước mặt người bị tấn công để cho người đó biết, bất luận
có người nào khác biết hay không).
Tình huống 2: T vừa lĩnh 50 triệu đồng tiền
gửi ngân hàng đi ra đến đường quốc lộ thì K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T
đưa tiền, nếu không đưa thì K sẽ đâm. Ngay lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới
bắt giữ K. Vậy K có phạm tội không?
Trả lời:
K đã có hành vi đe doạ dùng ngay tức khắc vũ
lực (dùng dao dí vào cổ T) để buộc T là người bị tấn công phải sợ và tin tưởng
nếu không đưa tiền cho K thì tính mạng của T sẽ bị nguy hại (bị đâm dao vào
người), do đó K đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật
hình sự. Bởi theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong
các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc.
Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là
đe doạ dùng ngay tức thì sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ
khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay
đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao
đâm, chém... nếu người bị tấn công không chịu khuất phục để buộc người bị tấn
công phải sợ và tin tưởng rằng nếu không để cho lấy tài sản thì tính mạng và
sức khoẻ sẽ bị nguy hại. Ở đây thông thường được kết hợp giữa hành vi sẽ dùng
vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo, để tạo cảm giác cho người
bị tấn công sợ và tin tưởng rằng người phạm tội sẽ dùng vũ lực.
Ngay tức khắc là ngay lập tức, không chần
chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị tấn công không giao tài sản cho
người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị
hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực
sẽ được thực hiện.
Tình huống số 3: T lập kế hoạch và bàn bạc
với M và P cướp tiền của những người mới lĩnh tiền từ Ngân hàng Đ. T phân công
cho M dùng dao đe doạ người bị tấn công, còn M lao vào cướp tiền rồi lên xe máy
do T đang đứng đợi sẵn. Vậy T, M và P phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ
luật hình sự?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì cướp tài sản có tổ chức được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng
thực hiện tội cố ý cướp tài sản mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện
tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội,
phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó có người tổ chức, người
thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải vụ án cướp tài
sản có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường
hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục
hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức thì
mới phạm tội có tổ chức.
Người
tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ
chức có thể có những hành vi như: khởi sướng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực
hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; phân công trách nhiệm cho
những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành
động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực
hiện tội phạm...
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện
tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém người bị tấn công, trực tiếp cầm súng đe
doạ người bị tấn công hay trực tiếp chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công...
Như vậy, trong vụ án cướp tài sản trên thì có
ba người đó là T, M và P cùng cố ý thực hiện tội cướp tài sản, trong đó T là
người tổ chức vì là người vạch kế hoạch, chủ động bàn bạc với M và P thực hiện
hành vi cướp tài sản và phân công trách nhiệm cho M và P, còn M và P là những
người thực hành vì có hành vi trực tiếp dùng dao đe doạ và cướp tài sản của
người bị tấn công. Do đó T, M và P đã phạm tội cướp tài sản với tình tiết có tổ
chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tình huống 4: H là thợ điện dựng xe máy loại
xe LEAD có giá trị 35 triệu đồng ở ria đường để trèo lên cột điện sửa chữa điện
nhưng quên không rút chìa khoá. C đi qua thấy vậy liền tiến đến xe máy của H,
gạt chân chống xe lên rồi nổ xe phóng đi. H ở trên cột điện nhìn thấy C lấy xe
máy của mình nhưng không làm gì được. Vậy C có phạm tội không? Nếu có thì đó là
tội gì?
Trả lời:
C có hành vi công khai, ngang nhiên, trắng
trợn chiếm đoạt tài sản (lấy xe máy của H có giá trị 35 triệu đồng), H là chủ
xe máy biết là C lấy xe máy của mình mà không thể giữ được. Hành vi đó của C là
hành vi công nhiêm chiếm đoạt tài sản. Do đó C đã phạm tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan
duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, ngang
nhiên. Người phạm tội lấy tài sản ngay trước mắt chủ sở hữu tài sản mà người
này không làm gì được (không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt
tài sản của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu
quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai).
Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi chiếm đoạt tài sản, chủ sở hữu tài sản biết ngay người lấy tài sản của mình nhưng không thể giữ được.
Tình huống 5: T và K đang cắt lúa ở cánh đồng
thì đột nhiên K bị cảm, thấy vậy T liền bế K lên đường thì nhìn thấy xe máy của
G đang để ở ria đường, xe không khoá. T đặt K ngồi lên xe máy đó và nổ máy với
mục đích để đưa K vào bệnh viện cấp cứu. G đang tắm ở dưới ao nhìn thấy T lấy
xe của mình nhưng cũng không làm gì được. Vậy T có phạm tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức
lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm
tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người phạm
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản
trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã
bao hàm mục đích của người phạm tội.
Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài
sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, T lấy công khai lấy xe máy của G
nhưng không có mục đích chiếm đoạt mà chỉ có mục đích đưa K đi bệnh viện cấp
cứu vì K bị cảm, do đó T không phạm tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản được quy
định tại Điều 172 Bộ luật hình sự.
Tình huống 6: H đang đi xe máy loại xe
Jupiter vừa mới mua với giá 24 triệu đồng thì K là người quen của H vẫy tay xin
đi nhờ. H dừng xe lại và đèo K đi cùng. Khi đi được một lúc thì H dừng xe trước
quán nước và bảo K cùng vào quán uống nước. Lợi dụng lúc H đi rửa tay thấy xe
vẫn đang mở khoá, K liền nổ máy phóng xe máy của H đi đến chợ T bán xe lấy tiền
tiêu sài. Khi H rửa tay quay ra và hỏi Đ là chủ quán về xe của mình thì Đ vẫn
tưởng xe đó là xe của K. Vậy K phạm tội gì?
Trả lời:
Lợi dụng lúc H đi rửa tay, K đã lén lút (bí
mật) lấy xe máy của H và mặc dù K lấy xe máy của H ngang nhiên trước mặt Đ là
chủ quán nước nhưng đó chỉ là ý thức che giấu tính hợp pháp cho hành vi của K
để cho Đ tưởng đó là xe máy của K. Do đó hành vi của K chính là hành vi trộm
cắp tài sản nên K đã phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ
luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự
năm 2015 thì mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén
lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản mà
người này không hề hay biết tài sản của mình đang bị chiếm đoạt, chỉ sau khi
mất thì thì người đó mới biết bị mất tài sản.
Tính chất lén lút, bí mật của hành vi trộm cắp
tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội che giấu, giấu diếm hành vi chiếm đoạt
tài sản của mình đối với chủ sở hữu tài sản.
Người phạm tội không những chỉ có ý thức bí
mật đối với người quản lý tài sản mà còn bí mật đối với người xung quanh khu
vực có tài sản nhưng có những trường hợp người phạm tội không hề che giấu hành
vi trộm cắp tài sản đối với người xung quanh nhưng lại có những hành động để
người xung quanh tưởng lầm đó không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Ví dụ
như: giả vờ đi nhờ xe để người xung quanh tưởng nhầm là xe của người đó và đợi
cho đến khi chủ sở hữu của xe đó sơ hở, mất cảnh giác thì trộm cắp xe.
Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại
về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Tài sản bị chiếm đoạt
phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nếu
tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi trộm cắp đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội
đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa phải
dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt trong từng trường hợp cụ thể.
- Nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ, gọn thì tội
trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội đã giấu được tài sản đó
trong người.
Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt to,
cồng kềnh thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội mang tài
sản đó ra khỏi nơi quản lý của chủ sở hữu.
Tình huống 7: Sau khi Q lập kế hoạch trộm cắp
xe máy của công ty K thì Q rủ rê P, T và V cùng trộm cắp xe máy. Sau khi P, T
và V đồng ý Q đã chủ động bàn bạc về kế hoạch trộm cắp. Q có nhiệm vụ chuẩn bị
các dụng cụ phá khoá cửa và theo dõi, chỉ huy hoạt động trộm cắp, Q phân công P
thực hiện việc phá khoá, phân công T dắt xe máy ra và phân công V đưa xe máy
đến nơi cất giấu mà Q đã chuẩn bị sẵn. Q, P, T và V trộm cắp đến lần thứ ba với
tổng cộng là 7 chiếc xe máy thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Vậy Q, P, T và V
phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Trả lời:
Q, P, T và V đã phạm tội trộm cắp tài sản với
tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 2
Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi vì Q, P, T và V cố ý cùng thực hiện tội
trộm cắp tài sản (trộm cắp xe máy) mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực
hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm
tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó Q là người tổ chức, P,
T và V là những người thực hành.
Q là người tổ chức bởi vì Q là người chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy việc trộm cắp xe máy, Q khởi sướng việc phạm tội, vạch kế
hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm, phân công trách
nhiệm cho những người đồng phạm khác (P, T và V) thực hiện hành vi trộm cắp tài
sản.
P, T và V là những người thực hành vì là
những người trực tiếp lén lút trộm cắp xe máy, trực tiếp phá khoá cửa, trực
tiếp đưa xe máy đến nơi cất giấu.
Tình huống 8: H là
công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của công ty Đ, rồi buộc từng
chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần lên và đi về. Khi ra đến
cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi giầy trong ống quần, K
yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy thế K đuổi theo và túm
được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong người ra đâm vào tay K để
cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật
hình sự?
Trả lời:
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 172 Bộ
luật hình sự năm 2015 thì tình tiết hành hung để tẩu thoát trong tội trộm cắp
tài sản được hiểu là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị
đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc đối
với người đã bắt giữ để người này không dám đuổi bắt hoặc không thể bắt giữ
được nhằm để tẩu thoát.
Người phạm tội hành hung đối với người đuổi
bắt (có thể là chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hoặc là người khác) nhằm mục đích
tẩu thoát. Nhưng nếu người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản mà bị đuổi
bắt hoặc đã bị chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hay người khác bắt giữ nhưng cố
tình giữ bằng được tài sản đã trộm cắp bằng cách hành hung người đuổi bắt hoặc
người đang bắt giữ thì ngườiphạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
cướp tài sản. Trong trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ
tội trộm cắp sang tội cướp tài sản (hay còn gọi là đầu trộm đuôi cướp).
Như vậy, H là người trộm cắp tài sản bị K
phát hiện thì đã bỏ chạy, K đuổi theo thì H đã hành hung K (rút dao trong người
đâm vào tay K) nhưng H hành hung K không phải để tẩu thoát mà để giữ bằng được
tài sản đã trộm cắp (đôi giầy). Do vậy H đã phạm tội cướp tài sản theo quy định
tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tình huống 9: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên H đã đến nhà B giả vờ hỏi
mượn xe máy loại xe Wave trị giá 15 triệu đồng để đi thăm người ốm. Khi B cho H
mượn xe thì H đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được 5 triệu
đồng và H lấy số tiền này để đánh bạc. Vậy H phạm tội gì?
Trả lời :
H có hành vi dùng thủ đoạn gian dối (giả vờ
mượn xe máy loại xe LEAD trị giá 35 triệu đồng để đi thăm người ốm) làm cho B
là chủ sở hữu chiếc xe máy tưởng là thật nên đã
tự nguyện giao xe máy cho H. Khi H nhận được xe máy của B thì H đã có
hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy (bán xe máy được 5 triệu đồng để lấy tiền đánh
bạc). Hành vi đó của H là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do đó H đã phạm
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm
2015. Bởi theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách
quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hành vi duy nhất đó là hành
vi chiếm đoạt nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Trong đó thủ đoạn gian
dối là điều kiện để thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Gian dối là đưa ra thông tin hay hành động
không đúng sự thật nhằm đánh lừa người
khác để người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối được thực hiện rất đa
dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người có chức vụ, quyền
hạn… Hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm để chiếm đoạt
tài sản, còn nếu có hành vi gian dối không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà
nhằm mục đích khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể để nhằm đánh lừa chủ
sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Luật hình sự Việt Nam không
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có thủ đoạn gian dối thuộc về tư
tưởng, suy nghĩ mà không biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi.
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ
cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người người bị hại với người
phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối
lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp có thể phạm tội khác.
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch tài sản của người khác thành tài sản của
mình bằng thủ đoạn gian dối.
Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là
thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài
sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm
theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc người có hành vi lừa đảo đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Tội phạm hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt
tài sản đã xảy ra.
Tình huống 10: C có nhu cầu xây dựng
nhà ở nên đã hỏi vay của T 50 triệu đồng để xây dựng nhà ở. T đồng ý và đưa cho
C vay 50 triệu đồng (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận). Sau
khi nhận tiền của T thì C lại không xây nhà vì C không muốn ở Việt Nam mà muốn
sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C. Vì không định trả lại tiền vay cho T
nên khi đi C mang theo 50 triệu đồng đã vay của T. Vậy C có phạm tội không?
Trả lời:
C vay được tài sản của người khác (vay được
50 triệu đồng của T) bằng hợp đồng bằng văn bản hợp pháp (việc vay mượn có làm
hợp đồng và viết giấy biên nhận) nhưng sau khi vay được tiền thì C đã bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản (bỏ sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C để chiếm
đoạt 50 triệu đồng tiền vay của T). Hành vi đó của C chính là hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do đó C đã phạm tội lạm dụng tính nhiệm chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy
định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi sau:
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng hợp pháp (hình
thức của hợp đồng có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng) rồi dùng thủ đoạn gian
dối (như: giả tạo bị mất tài sản; đánh tráo tài sản; rút bớt tài sản...) hoặc
bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó. Thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản chỉ xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp.
Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa
chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tình huống 11: Anh K vừa qua đã bị cơ quan có thẩm quyền truy tố
do hành vi vi phạm pháp luật về an ninh trật tự. Quá trình luận tội, xét thấy
anh K đang có nơi làm việc ổn định, cư trú rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng,
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội, nên anh K đã bị Tòa án
tuyên phạt cải tạo không giam giữ 1 năm. Một số ý kiến thắc mắc cho rằng Tòa án
đã xét xử chưa đúng người, đúng tội. Xin hỏi trường hợp này pháp luật quy định
như thế nào?
Trả lời:
Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giữ giữ
1 năm đối với trường hợp anh K ở trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của
pháp luật vì theo Điều
36 của Bộ luật, cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06
tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng
do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ
ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam
thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không
giam giữ.
Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam
giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong
việc giám sát, giáo dục người đó.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án
phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và
bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu
trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có
thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp
hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam
giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt
này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời
gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không
quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng
đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già
yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt
nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải
thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.
Tình huống 12: Chị Nguyễn Thị H sống độc thân, do thiếu hiểu
biết, chị đã cho một gái bán dâm ở trong nhà chị và thực hiện hành vi mua bán
dâm với nhiều người trong nhiều lần khác nhau, xin hỏi trường hợp của chị có
phải là phạm tội nhiều lần không?
Theo hướng dẫn tại mục 4, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì chỉ áp dụng tình tiết
“phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm thuộc một trong các trường hợp
sau:
a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa
điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm
khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không
phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên
độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai
người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.
Trường hợp của chị Nguyễn Thị H nêu trên vi
phạm điểm c “Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các
khoảng thời gian khác nhau” được coi là “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại
điểm c, khoản 2 điều 254 của Bộ luật hình sự.
Tình huống 13: Trần Tiến D là kế toán trưởng
của Tập đoàn chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu. Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn được giao, D đã móc nối với một số đối tác để làm chứng từ khống, thu lợi
bất chính nhiều tỷ đồng và đã bị cơ quan điều tra phát hiện. Xin hỏi trong
trường hợp này, việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của D có bị coi là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại
Điều 52 của Bộ luật, việc Trần Văn D lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội sẽ bị
coi là tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt. Theo đó, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 52 bao gồm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ
nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
k) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng
không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng,
người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất,
tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng
khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để
phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác
để phạm tội;
n) Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
o) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
p) Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm
trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự quy
định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình
tiết tăng nặng.
Tình huống 14: Nguyễn Văn V do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê đã cùng đồng
bọn đột nhập vào nhà bà M trộm cắp. Khi bị phát hiện V đã chủ động tấn công và
đâm chết cháu trai của bà M khi anh này cố tình ngăn cản không cho V chạy
thoát. Sau khi V bị bắt, cơ quan điều tra đã có quyết định khởi tố V về tội
giết người thì gia đình V đã có đơn kiện, cho rằng do V còn nhỏ (mới hơn 14
tuổi), nhận thức kém, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi pháp
luật quy định về vấn đề này như thế nào?
Trả lời:
Điều 12 Bộ luật quy định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự như sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản);
Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma
túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển
trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252
(tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều
266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng
vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương
tiện điện tử của người khác); Điều
290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303
(tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều
304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Căn cứ quy định ở trên, V bị truy tố tội giết
người khi V đã hơn 14 tuổi, là đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi
của mình gây ra nên việc gia đình V có đơn kiện là hoàn toàn trái quy định của
pháp luật.
Tình huống 15: Do mâu thuẫn về đất đai trong quá trình
xây dựng nhà ở, Nguyễn Tiến D đã bàn bạc âm mưu cùng 2 anh trai sang nhà ông B
hàng xóm gây rối và đánh người nhà ông B. Kết quả ông B và con trai ông đã bị
anh em D đánh gây thương tích đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Quá
trình điều tra cơ quan công an còn phát hiện bố đẻ D là ông H cũng biết trước
việc này. Đề nghị cho biết trường hợp này ông H có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự do không tố giác tội phạm hay không?
Trả lời:
Theo Điều 19 của Bộ luật, người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã
được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không
tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 389 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Điều luật cũng quy định người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ
hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm theo quy định như trên, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định trên,
ông H sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự do không tố giác tội phạm là con
đẻ của mình.
Tình huống 16: Anh Nguyễn Văn H uống rượu say nên trên đường đi làm về đã gây ra tai nạn giao thông
làm trọng thương một người đi bộ sang đường; sau đó gia đình anh H đã gặp gỡ
gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầy đủ các chi phí cho
họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không xử lý hình sự đối với anh H.
Trong trường hợp này, anh H có phải chịu trách nhiệm hình sự nữa không ?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015,
người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi
phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở
lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe cho 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe cho 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này
từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không
có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma
túy hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây
tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị
nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc
hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này
từ 122% đến 200%;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000
đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Đối
chiếu với quy định ở trên, việc anh H khi gây tai nạn trong tình trạng say
rượu là tình tiết định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều luật nói
trên. Mặc dù người gây tai nạn đã bồi thường thiệt hại về vật chất nhưng theo
quy định của pháp luật, người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
đã gây ra. Việc người gây án đã chủ động bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn
nhân sẽ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt khi vụ án được đưa
ra xét xử.
Tình huống 17: Anh
Trần Văn D bị tòa án phạt 20 tháng tù về tội vi phạm các qui định về an toàn
giao thông đường bộ. Sau khi gây án, anh Đ rất ăn năn, hối cải, khai báo thành
khẩn. Trong khi chờ đi thụ hình đã có công cứu được 3 trẻ nhỏ bị nước lũ cuốn
trôi. Như vậy anh D có được được miễn chấp hành hình phạt tù không?
Trả lời:
Theo quy định tại
Điều 59 Bộ luật hình sự năm 2015, người phạm tội có thể được miễn hình
phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật
này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm
hình sự.
Khoản 1 Điều 54 Bộ luật
hình sự quy định: Tòa
án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi
người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51
của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 51
của Bộ luật hình sự, anh D đã có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ nhờ việc hối cải,
khai báo thành khẩn và lập công chuộc tội thì có thể được xét miễn chấp hành
hình phạt.
Tình huống 18: Nguyễn Thị A phạm
tội buôn bán ma túy. Trong quá trình điều tra, truy tố xét xử, cơ quan có thẩm
quyền phát hiện A đang có thai. Xin hỏi trong trường hợp này A có được hoãn
chấp hành hình phạt tù hay không?
Trả lời:
Theo Điều 67 của Bộ luật, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt
trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức
khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình,
nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được
hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do
nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt
tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới,
thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Đối chiếu với quy định nêu trên, Nguyễn Thị A
sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi đứa con được 36 tháng tuổi. Tuy
nhiên, trường hợp trong thời gian được hoãn, A lại tiếp tục phạm tội thì A sẽ
bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt trước đó theo quy định nêu trên.
Tình huống 19: Nguyễn Hữu T cùng
đồng bọn phạm tội cướp giật tài sản khi T mới được 17 tuổi 5 tháng. Quá trình
điều tra xác định T phạm tội với tư cách là đồng phạm giúp cho đồng bọn bỏ
trốn, không trực tiếp tham gia vào vụ cướp giật tài sản. Trong trường hợp này,
T có thể bị áp dụng biện pháp khiển trách hay không?
Trả lời:
Theo Điều 93 của Bộ luật, khiển trách
được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp
sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả gây ra
đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng;
b) Người dưới
18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Căn cứ quy định
trên, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khiển trách đối với T. Việc khiển trách
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ
hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
Đồng thời, điều
luật cũng quy định T phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của
nơi cư trú, học tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi
được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học tập, dạy
nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể cơ quan có
thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại
điểm b và điểm c khoản 3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm.
Tình huống 20: Trần
Văn D làm nghề lái xe tắc xi. Trong một lần chở khách ban đêm, H đã vô tình
tông phải vợ chồng anh G làm cho anh bị thương tích nặng. Quá hoảng sợ, D đã
lái xe bỏ chạy, bỏ mặc vợ chồng anh G trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Hành vi của D phạm tội gì và bị xử lý ra sao?
Trả lời:
Hành vi của D đã phạm vào tội không cứu giúp
người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng quy định tại Điều 132 của
Bộ luật. Theo đó, người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó
chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù
từ 03 tháng đến 02 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây
ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp
luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị
phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
II. TÌNH HUỐNG PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI
Tình
huống 1: Gia đình ông N được giao 3 ha đất để trồng lúa đến nay đã được 3 năm
nhưng do điều kiện khí hậu hạn hán, đất đai khô cằn nên năng suất trồng lúa
không cao. Qua một 3 năm trồng lúa ông N nhận thấy đất ở đây không phù hợp với
việc trồng lúa vì vậy ông muốn chuyển đổi sang trồng một số loại cây như đỗ,
lạc. Hỏi: Xin hãy trường hợp của ông N có phải làm
chuyển đổi mục đích sử dụng đất không? Cơ quan nào có thẩm quyền cho phép
chuyển đổi mục đích sử dụng đất?
Trả lời
Căn cứ tại Điều
57 Luật đất đai 2013 có quy định chuyển mục đích sử dụng đất như sau:
"1. Các
trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bao gồm:
a) Chuyển đất
trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản,
đất làm muối;
b) Chuyển đất
trồng cây hàng năm khác sang đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, đất làm muối, đất
nuôi trồng thủy sản dưới hình thức ao, hồ, đầm;
c) Chuyển đất
rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất sang sử dụng vào mục đích
khác trong nhóm đất nông nghiệp;
d) Chuyển đất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp;
đ) Chuyển đất
phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất sang đất phi
nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất;
e) Chuyển đất
phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;
g) Chuyển đất
xây dựng công trình sự nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích
kinh doanh, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại,
dịch vụ sang đất thương mại, dịch vụ; chuyển đất thương mại, dịch vụ, đất xây dựng
công trình sự nghiệp sang đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp.
2. Khi chuyển
mục đích sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người sử dụng đất
phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; chế độ sử dụng đất,
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được áp dụng theo loại đất sau khi được
chuyển mục đích sử dụng".
Như vậy,
trường hợp của ông N là chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp nên cần
phải tiến hành thủ tục xin phép. Đồng thời ông N phải đến Uỷ ban nhân dân nơi
ra quyết định giao đất để làm thủ tục xin phép chuyển mục đích sử dụng đất theo
quy định của Khoản 2 Điều 37 Luật đất
đai 2003, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
được thực hiện như sau : “Uỷ ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân;
giao đất đối với cộng đồng dân cư.”
Tình huống 2: Vợ chồng ông A bà B năm 1968 có nhận chuyển nhượng
một thửa đất bằng giấy tay và làm nhà ở từ trước đến nay, có đăng ký kê khai
theo bản đồ 299 (năm 1984), 202 (năm 1997). Vợ chồng ông A bà B sử dụng thửa
đất liên tục từ đó đến nay ổn định, không tranh chấp, phù hợp với quy hoạch. Nay
vợ chồng ông A bà B muốn lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhưng không biết mình có đủ điền kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hay không. Xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Trả lời:
Thời điểm sử dụng đất của ông A bà B là từ năm 1968. Từ đó đến
nay, vợ chồng ông A bà B đã sử dụng, ở ổn định liên tục, không tranh chấp, có
tên trong sổ địa chính năm 1984, có đăng ký kê khai năm 1997. Theo quy định tại
khoản 1 Điều Điều 20
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị
định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất
đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng
khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm
nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy
hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
(sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử
dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa
có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc
bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai
(sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được
công nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức
công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất
ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống
lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích
thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương
mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp,
đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình
thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất,
thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;
c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản
xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức
công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a
Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại,
dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định
theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông
nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.
Như vậy chiếu theo quy định nêu trên thì ông A và bà B đủ điều
kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Tình huống 3: Trong quá trình thương lượng, bàn bạc làm ăn, kinh
doanh giữa doanh nghiệp K có vốn đầu tư nước ngoài với một doanh nghiệp trong
nước C đã thỏa thuận: Doanh nghiệp K đã nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá
trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp C đang sử dụng có nguồn gốc được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất với điều kiện doanh nghiệp C phải thực
hiện đầy đủ xong các nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật. Xin
hỏi, thỏa thuận này của hai bên có đúng với các quy định của pháp luật hay
không? Việc chuyển nhượng vốn đầu tư là
giá trị quyền sử dụng đất được pháp luật quy định như thế nào?
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng
vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp đang sử dụng đất có
nguồn gốc được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền
một lần cho cả thời gian thuê mà giá trị quyền sử dụng đất đã được vốn hóa vào
vốn của doanh nghiệp, trừ trường hợp chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp.
- Doanh nghiệp, các thành viên là chủ sở hữu doanh nghiệp khi
chuyển nhượng vốn đầu tư phải xác định phần vốn là giá trị quyền sử dụng đất
trong tổng giá trị vốn chuyển nhượng và phải thực hiện nghĩa vụ thuế, phí, lệ
phí theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thỏa thuận nêu trên của hai bên K và C hoàn toàn đúng với
các quy định của pháp luật.
Tình huống 4: Cách đây 10 năm, gia đình nhà ông Q - một hộ dân tộc thiểu số ở tỉnh miền
núi phía Bắc được Nhà nước được hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt để phát triển sản xuất, cải
thiện đời sống góp phần xóa đói, giảm nghèo…
Nhờ chăm chỉ lao động, gia đình ông Q đã khai phá mảnh đất, trồng trọt, canh
tác, nuôi sống gia đình và có điều kiện cho các con ăn học. Nay do già cả, sức
khỏe có phần yếu đi, con cái lại đi làm ăn xa, nên Q đã lên Ủy ban nhân dân xã
nơi cú trú để trình bày nguyện vọng được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
gia đình em trai của mình. Xin hỏi, pháp luật quy định về điều kiện chuyển nhượng
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất
do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ như thế nào?
Theo quy định tại Điều 40 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP về điều kiện chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia
đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất
theo chính sách hỗ trợ:
- Hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do
được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ được chuyển
nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất
nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không còn nhu cầu sử dụng
do chuyển khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú để đến nơi khác hoặc do
chuyển sang làm nghề khác hoặc không còn khả năng lao động.
- Tổ chức, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng
đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước mà không
thuộc trường hợp được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định
nêu trên.
Như vậy, theo qui định pháp luật, gia đình ông Q có thể chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình em
trai, nếu đó là đất được nhà nước cấp theo chính sách hỗ trợ quyền sử dụng đất
sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất nếu được ủy ban nhân dân cấp xã
xác nhận không còn nhu cầu sử dụng.
Tình huống 5: Anh H là tổng giám đốc công ty đầu tư và tư vấn xây
dựng PQ đã tiến hành đầu tư vốn để xây dựng 01 dự án kinh doanh nhà ở để bán
trong trung tâm thành phố. Tuy nhiên, khi dự án đang triển khai thì phát sinh
một số thay đổi về vốn và nhân lực, nên công ty của anh đã thương lượng để tiến
hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà
ở này cho một công ty xây dựng khác trong thành phố. Giám đốc công ty này yêu
cầu công ty PQ phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm các công
trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch chi
tiết đã được phê duyệt; đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực
trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người dân tự xây
dựng nhà ở; đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết yếu gồm cấp điện, cấp nước,
thoát nước, thu gom rác thải…mới tiến hành nhận chuyển nhượng. Xin hỏi các điều
kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho
thuê được pháp luật quy định như thế nào?
- Điều kiện dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để
bán kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân
lô, bán nền, bao gồm:
+ Phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện;
+ Chủ đầu tư dự án phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng gồm các công trình dịch vụ, công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội
theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đã được phê duyệt; đảm bảo kết nối với
hệ thống hạ tầng chung của khu vực trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho người dân tự xây dựng nhà ở; đảm bảo cung cấp các dịch vụ thiết
yếu gồm cấp điện, cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải;
+ Chủ đầu tư phải hoàn thành nghĩa vụ tài
chính liên quan đến đất đai của dự án gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
thuế, phí, lệ phí liên quan đến đất đai (nếu có);
+ Dự án thuộc khu vực, loại đô thị được chuyển nhượng quyền sử
dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền theo quy định pháp luật.
- Chủ đầu tư dự án xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán
kết hợp cho thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô,
bán nền tại các khu vực không nằm trong địa bàn các quận nội thành của các đô
thị loại đặc biệt; khu vực có yêu cầu cao về kiến trúc cảnh quan, khu vực trung
tâm và xung quanh các công trình là điểm nhấn kiến trúc trong đô thị; mặt tiền
các tuyến đường cấp khu vực trở lên và các tuyến đường cảnh quan chính trong đô
thị.
- Hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tự
xây dựng nhà ở phải thực hiện việc xây dựng nhà ở theo đúng giấy phép xây dựng,
tuân thủ quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị đã được phê duyệt.
Như vậy công ty đầu tư và tư vấn xây dựng PQ phải đáp ứngđủ các điều kiện nêu trên để chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh
nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê
Tình huống 6: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn A sinh sống bằng
nghề nuôi cá basa ở tỉnh K, thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích đất
nuôi trồng của gia đình ông vào khoảng 2 héc ta (ha). Do giá cá basa trên thế
giới gần đây tăng nên ông A và gia đình quyết định mở rộng diện tích nuôi trồng
lên 25 héc ta bằng cách nhận chuyển nhượng những diện tích đất nuôi trồng thủy
sản của các hộ gia đình khác ở xung quanh. Việc nhận chuyển nhượng diện tích đất
này của gia đình ông A có thuộc hành vi bị nghiêm cấm theo các quy định của Luật
đất đai năm 2013 hay không?
Điều 12 Luật đất đai năm 2013 quy định về những hành vi bị nghiêm
cấm thực hiện liên quan đến đất đai, trong đó, tại Khoản 5 quy định: “5. Nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp
vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này.”
Như vậy, việc nhận chuyển nhượng diện tích đất để nuôi trồng thủy
sản vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này mới là
hành vi bị cấm.
Do đất ông A nhận chuyển nhượng là đất sử dụng để nuôi trồng thủy
sản và khu vực đất đều thuộc tỉnh K thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên
áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 129 Luật đất đai năm 2013, cụ thể: “1. Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất
nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp như sau:
a) Không quá 03 héc ta cho mỗi loại đất đối
với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc khu vực Đông
Theo Khoản 1 Điều 130 Luật đất đai năm
2013 thì hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân được quy định cụ thể như sau: “Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình,
cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật này.”
Theo đó, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ
gia đình ông A là không vượt quá 30 héc ta. Đối chiếu với trường hợp của ông A,
gia đình ông đã có 2 héc ta và muốn mở rộng lên 25 héc ta. Như vậy, ông A phải
mua thêm 23 héc ta. Diện tích đất mua thêm này chưa vượt quá hạn mức cho phép
nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp theo quy định của Luật đất đai năm 2013. Vì
vậy, hành vi nhận chuyển nhượng diện tích đất này của gia đình ông A không
thuộc hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật đất đai năm 2013.
Tình huống 7: Doanh nghiệp X là một công ty xây dựng có uy
tín tại Hà Nội. Do nhận thấy thị trường nhà ở cho công nhân khu công nghiệp gần
đó rất có tiềm năng phát triển nên doanh nghiệp có ý định tham gia vào một dự
án đầu tư xây dựng nhà chung cư. Để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất cho việc thực hiện dự án đầu tư này thì doanh
nghiệp X phải đáp ứng các điều kiện nào?
Theo Điểm a, Khoản 1 Điều 14 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật đất đai (Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) thì các dự án có sử dụng đất
phải áp dụng các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 58 của Luật đất đai gồm:
“a) Dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để
cho thuê hoặc để bán kết hợp cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở;”
Như vậy, dự án mà doanh nghiệp X muốn tham
gia (xây dựng nhà chung cư để bán cho công nhân) thuộc phạm vi điều chỉnh của
quy định này. Để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất thì doanh nghiệp X phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 3
Điều 58 Luật đất đai năm 2013 như sau:
- Thứ nhất, có năng lực tài chính để bảo đảm
việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư. Theo đó, Khoản 2 Điều 14 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP quy định điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc
sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư gồm:
+ Có
vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư
đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta; không thấp hơn 15% tổng mức
đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 héc ta trở lên;
+ Có
khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác.
- Thứ hai, ký quỹ theo quy định của pháp luật
về đầu tư;
- Thứ ba, không vi phạm quy định của pháp
luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho
thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác. Việc xác định người được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử
dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác xác
định theo các căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP:
+
Kết quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai đối với các dự án tại địa phương
được lưu trữ tại Sở Tài nguyên và Môi trường;
+
Nội dung công bố về tình trạng vi phạm pháp luật đất đai và kết quả xử lý vi
phạm pháp luật đất đai trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Tổng cục Quản lý đất đai đối với các dự án thuộc địa phương khác.
Lưu ý, thời điểm thẩm định các điều kiện trên
được thực hiện đồng thời với việc thẩm định nhu cầu sử dụng đất của chủ đầu tư
khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, lập báo cáo kinh tế -
kỹ thuật hoặc chấp thuận đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp
luật về xây dựng đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu
giá quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Trường hợp đấu giá quyền sử
dụng đất thì thời điểm thẩm định được thực hiện trước khi tổ chức phiên đấu giá
quyền sử dụng đất.
Tình huống 8: Tập
đoàn ABC là một tập đoàn lớn chuyên xây dựng các dự án khu trung tâm mua sắm và
nhà ở thương mại. Tập đoàn đang có ý định sử dụng một diện tích đất lớn tại khu
vực quận H ở thành phố HN. Việc sử dụng đất để thực hiện dự án này của tập đoàn
có thuộc phạm vi được Nhà nước thu hồi đất hay không? Nếu không thì việc sử
dụng đất này sẽ thông qua hình thức và nguyên tắc nào?
Có thể thấy việc sử dụng đất của tập đoàn ABC
để xây dựng dự án khu trung tâm mua sắm và nhà ở thương mại không thuộc các
trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai (các trường hợp
Nhà nước thu hồi đất đã được trình bày ở các câu 16, 17, 19, 20). Do đó, việc
sử dụng đất này của tập đoàn không thể được thực hiện dưới hình thức Nhà nước
thu hồi đất, mà sẽ thực hiện thông qua hình thức nhận chuyển nhượng, thuê quyền
sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh được
quy định tại Điều 73 Luật đất đai năm 2013.
Theo Khoản 1 Điều 73 Luật đất đai năm 2013,
việc sử dụng đất để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh không
thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61, Điều 62 của Luật mà
phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt thì chủ đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Khoản 2 Điều 73 Luật đất đai năm 2013 cũng
quy định rõ Nhà nước có chính sách khuyến khích việc thuê quyền sử dụng đất,
nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân
để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, việc sử dụng đất vào mục đích sản
xuất, kinh doanh thông qua hình thức mua tài sản gắn liền với đất, nhận chuyển nhượng,
thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tập đoàn ABC
phải đảm bảo các nguyên tắc được quy định tại Điều 16 Nghị định sô 43/2014/NĐ-CP như sau:
- Phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm
của cấp huyện đã được phê duyệt và công bố.
- Trên địa bàn không còn quỹ đất đã được giải
phóng mặt bằng để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phù hợp, trừ trường
hợp các dự án thuộc lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư.
- Trường hợp chủ đầu tư thực hiện phương thức
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà phải chuyển mục đích sử dụng đất thì
chỉ được thực hiện sau khi Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất, cho phép điều chỉnh thời hạn sử dụng đất cho
phù hợp với việc sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh.
- Trường hợp diện tích đất thực hiện dự án
sản xuất, kinh doanh có phần diện tích đất mà người đang sử dụng đất không có
quyền chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai thì chủ đầu tư được phép thỏa thuận mua tài sản gắn liền
với đất của người đang sử dụng đất, Nhà nước thực hiện thu hồi đất, chuyển mục
đích sử dụng đất và cho chủ đầu tư thuê đất để thực hiện dự án. Nội dung hợp
đồng mua bán tài sản gắn liền với đất phải thể hiện rõ người bán tài sản tự
nguyện trả lại đất để Nhà nước thu hồi đất và cho người mua tài sản thuê đất.
Tình huống 9: Ông C
vốn là người Miền Nam nhưng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã chuyển ra
sinh sống và làm việc tại Hà Nội. Hiện mảnh đất mà ông và gia đình đang ở được
ông C gây dựng từ khi ra Hà Nội vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, nên ông C có nguyện
vọng muốn làm Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, do mấy năm trước nhà ông bị cháy nên
các giấy tờ về quyền sử dụng đất chứng minh mảnh đất là của ông và gia đình đã
không còn. Vậy trường hợp ông C có được cấp Giấy chứng nhận hay không?
Khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013 có quy
định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại
Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng
7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp
xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất.”
Theo đó, gia đình ông C sẽ được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất nếu gia đình ông đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01/7/2014 và không vi
phạm pháp luật về đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có
tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô
thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch (Theo quy định tại Điều 21 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP).
Tình huống 10: Doanh
nghiệp X là một tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản của tỉnh H. Hiện
doanh nghiệp X đang muốn thuê ngôi nhà tại địa chỉ 27 đường Nguyễn Chí Thanh
của ông Y để làm trụ sở kinh doanh. Vậy, hợp đồng thuê giữa doanh nghiệp X và
ông Y có bắt buộc phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật đất
đai hay không?
Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 167
Luật đất đai năm 2013 thì “b) Hợp đồng
cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài
sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt
động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của
các bên;”
Đối chiếu với hợp đồng thuê nhà giữa doanh
nghiệp X và ông Y, có thể thấy hợp đồng này là hợp đồng cho thuê quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất (ngôi nhà) mà trong đó có một bên là tổ chức
hoạt động kinh doanh bất động sản (doanh nghiệp X). Như vậy, hợp đồng này không
bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực mà chỉ khi có yêu cầu của các bên
trong hợp đồng mới phải thực hiện công chứng hoặc chứng thực.
Ngoài ra, nếu có yêu cầu việc công chứng sẽ
được thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, còn việc chứng thực sẽ
được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tình huống 11: Gia đình ông A có thửa đất diện tích 720 m2, đã được UBND huyện
X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mục đích sử dụng là đất trồng lúa. Năm 2015, con trai ông A là anh K lấy vợ. Ông A sử dụng 360 m2
trong thửa đất nêu trên để xây nhà cho con trai. Hỏi hành vi của ông A có vi
phạm pháp luật đất đai không? Nếu có vi phạm thì bị xử phạt thế nào?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 170 Luật đất đai 2013 quy định
về nghĩa vụ chung của người sử dụng đất như sau:
“Điều 170. Nghĩa vụ
chung của người sử dụng đất
1. Sử dụng đất đúng
mục đích,.[…]”
Như vậy, ông A đã có hành vi vi phạm pháp
luật đất đai, cụ thể là đã sử dụng đất không đúng mục đích: chuyển mục đích 360
m2 diện tích đất trồng lúa đã được cấp GCNQSDĐ thành đất ở mà không
xin phép. Căn cứ quy định tại Điều 206 Luật đất đai 2013 thì người có hành vi
vi phạm pháp luật về đất đai thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Khoản 3 Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định như sau:
“Điều 6. Chuyển mục
đích sử dụng đất trồng lúa không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép
[…] 3. Chuyển mục
đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép
dưới 0,5 héc ta;[…]”
Trong trường hợp này, ông A đã có hành vi
chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang đất ở là đất phi nông nghiệp, với
diện tích 360 m2 (nhỏ hơn 0,5 héc ta). Do đó, ông A có thể bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra, theo quy định tại khoản
4 Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP thì ông A còn buộc phải khôi phục lại tình
trạng của đất trước khi vi phạm và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện hành vi vi phạm (nếu có) do hành vi vi phạm nêu trên.
Tình huống 12: Ông A,
ông B lần lượt là chủ sử dụng hợp pháp của hai mảnh đất a, b tại thôn X, có mục
đích sử dụng là đất ở. Tuy nhiên mảnh đất của ông A chưa sử dụng do hiện tại
ông sinh sống ở thôn Y. Còn ông B đã xây nhà và sinh sống trên thửa đất của
mình. Sau một thời gian, ông A phát hiện cột mốc ranh giới giữa hai thửa đất a
và b đã bị dịch chuyển, diện tích thửa đất a của ông A bị ông B lấn sang khoảng
2 m2.. Hỏi, hành vi của ông B bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Theo quy
định tại khoản 1 Điều 12 Luật đất đai 2013 (có hiệu lực từ 01/07/2014) thì các
hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
“Điều 12: Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai […]”.
Trong đó,
khoàn 1 điều 3 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai giải thích:
“1. Lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự
chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất[…]."
Như vậy, ông B đã thực hiện việc chuyển dịch
mốc giới thửa đất để mở rộng diện tích đất của nhà mình, nên được xem là hành vi
lấn đất. Đây là hành vi bị nghiêm cấm.
Việc xử
phạt được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP nói
trên. Cụ thể:
“Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng đối với hành vi lấn, chiếm đất ở.”
Ngoài ra,
phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là khôi phục lại tình trạng của đất
trước khi vi phạm và trả lại đất đã lấn theo quy định tại khoản 5 Điều 10 Nghị
định 102/2004/NĐ-CP.
Có nghĩa
ông B có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, và phải trả
lại nguyên trạng đất cho ông A.
Tình huống 13: Ông A khởi kiện ông B lên Tòa
án nhân dân huyện Y yêu cầu trả lại thửa đất K tọa lạc tại xã X, huyện Y vì cho
rằng đây là đất của ông A bị ông B chiếm. Ông A không xin được trích lục hồ sơ
địa chính tại xã X của thửa đất này nên có đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng
cứ. Tòa án đã tiến hành thực hiện việc thu thập chứng cứ là yêu cầu xã X trích
lục hồ sơ thửa đất. Tuy nhiên quá thời hạn yêu cầu mà UBND xã X không cung cấp
tài liệu. Hỏi, hành vi của xã X có vi phạm pháp luật không?
Trả lời:
Điều 7 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho
đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương
sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không
cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa
án, Viện kiểm sát.” Như vậy, hành vi không cung cấp chứng cứ trong thời hạn
yêu cầu xã X là vi phạm nghĩa vụ trong việc cung cấp chứng cứ là trích lục hồ
sơ địa chính của thửa đất K nêu trên. Khoản 3 Điều 29 Nghị định 102/2014/NĐ-CP
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:
“Điều 29. Vi phạm quy định về cung cấp thông
tin đất đai liên quan đến thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ để giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân
[…]
3. Phạt tiền từ trên 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng đối với hành vi không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có
liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra, thu thập chứng cứ để giải quyết tranh
chấp đất đai của Tòa án nhân dân.”
Trong trường hợp này, do có hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin
đất đai liên quan đến việc thu thập chứng cứ, UBND xã X có thể bị phạt tiền từ
trên 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định như trên.
Tình huống 14: Công ty TNHH X có lĩnh vực
hoạt động chủ yếu trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là hoạt động
thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Công ty X mở tổng đài tư vấn
giá đất cho khách hàng (ngành nghề này không được đăng ký khi thành lập doanh
nghiệp). Hỏi, hành vi của công ty X có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì bị
xử lý như thế nào?
Trả lời:
Công ty X chưa đăng ký ngành nghề tư vấn giá đất, do đó chưa đủ điều kiện
thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực đất đai. Hành vi này bị xử phạt theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 30 Nghị didhj 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai như sau:
“Điều 30. Vi phạm điều kiện về hoạt động dịch
vụ trong lĩnh vực đất đai
1. Tổ chức có hành vi vi phạm về điều kiện
được hoạt động tư vấn xác định giá đất thì hình thức và mức xử phạt như sau:
a) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng đối với hành vi hoạt động tư vấn xác định giá đất nhưng không có chức năng
tư vấn giá đất hoặc thẩm định giá hoặc tư vấn định giá bất động sản;[…]”
Như vậy trong tình huống này, công ty X đã có hành vi vi phạm điều kiện về
hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là hoạt động tư vấn xác định
giá đất nhưng không có chức năng tư vấn giá đất. Do đó, căn cứ quy định trên,
Công ty X bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Ngoài ra, căn cứ điểm b khoản 4 Điều 30 Nghị định 102/2014/NĐ-CP, Công ty X
còn bị đình chỉ hoạt động từ 09 tháng đến 12 tháng do đây là tổ chức không có giấy
phép hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giá đất.
Tình huống 15: Công ty cổ phần Bất động sản A
là đơn vị được Nhà nước giao đất xây dựng chung cư X để bán. Công ty A nhận
trách nhiệm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở tại chung cư X.
Trong Hợp đồng mua bán căn hộ với khách hàng có nêu rõ, Công ty A sẽ thực hiện
việc làm hồ sơ cấp Giấy chứng nhận và bàn giao nhà ở cho khách hàng ngay sau
khi nhận được toàn bộ số tiền thanh toán. Tuy nhiên, có khoảng 12 hộ dân trong
khu chung cư vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận dù đã thanh toán đầy đủ và được
bàn giao nhà ở từ 5 tháng trước. Hỏi, hành vi của công ty A bị xử phạt như thế nào?
Trà lời:
Trong tình huống này, Công ty A đã có hành vi chậm làm thủ tục cấp Giấy
chứng nhận cho người mua nhà ở, cụ thể là chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận
cho 12 hộ dân (khách hàng) trong 5 tháng (kể từ khi khách hàng được bàn giao
nhà ở).
Hành vi này bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 26 Nghị định 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai như sau:
“Điều 26. Chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng
nhận cho người mua nhà ở, người nhận quyền sử dụng đất ở
Trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất xây
dựng nhà ở để bán nhận trách nhiệm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người
mua nhà ở, người nhận quyền sử dụng đất ở mà chậm làm thủ tục cấp Giấy chứng
nhận kể từ ngày bàn giao nhà ở, đất ở thì hình thức và mức xử phạt như sau:
1. Chậm làm thủ tục từ 03 tháng đến 06 tháng:
a) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng đối với trường hợp chậm làm thủ tục cho dưới 30 hộ gia đình, cá
nhân;[…]”
Vậy, với hành vi vi phạm như trên, công ty X
bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
III. CÁC TÌNH HUỐNG
PHÁP LUẬT VỀ MÔI TRƯỜNG
Tình huống 1: Công ty
TNHH Dược X là công ty chuyên sản xuất
thuốc. Công ty X chưa được cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Trong quá
trình hoạt động, công ty X đã thực hiện hành vi xả nước thải có nhiều hóa chất
độc vào nguồn nước ước tính với lưu lượng nước thải từ 60 m3/ngày đêm. Hỏi:
Hành vi của công ty X có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì bị xử phạt như thế
nào?
Trả lời:
Theo Khoản 3 Điều 37 Luật tài nguyên nước năm 2012 quy
định về xả nước thải vào nguồn nước thì tổ chức, cá nhân xả nước thải vào nguồn
nước phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 73 của Luật này
cấp giấy phép, trừ trường hợp xả nước thải với quy mô nhỏ và không chứa hóa chất
độc hại, chất phóng xạ.
Điều 16 Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước đã xác định các trường hợp khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước không phải đăng ký,
không phải xin phép:
“3. Các trường hợp không phải xin phép xả nước thải vào
nguồn nước quy định tại Khoản 5 Điều 37 của Luật tài nguyên
nước bao gồm:
a) Xả nước thải
sinh hoạt của cá nhân, hộ gia đình;
b) Xả
nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với quy mô không vượt quá
5m3/ngày đêm và không chứa hóa chất độc hại, chất phóng xạ; [..]”.
Do doanh nghiệp X có lưu lượng nước thải từ 60 m3/ngày đêm, lại
kèm theo nhiều hóa chất độc nên phải có thủ tục xin cấp giấy phép xả thải tại
cơ quan có thẩm quyền. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 12 Nghị định
142/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước và khoáng sản thì hành vi xả nước thải vào nguồn nước không có giấy
phép theo quy định của pháp luật của Công ty X bị xử phạt như sau:
“[…]3. Phạt tiền từ
40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau:
a) Xả nước thải vào nguồn
nước với lưu lượng nước thải từ 50 m3/ngày đêm đến dưới 100 m3/ngày đêm, trừ
trường hợp quy định tại Điểm b Khoản này;[..]”
Như vậy,
với hành vi vi phạm như trên, Công ty X có thể bị phạt tiền từ 40.000.000 đồng
đến 60.000.000 đồng. Đồng thời, Công ty X buộc thực hiện các biện pháp khắc
phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái nguồn nước đối với các hành vi vi phạm mà
gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng nguồn nước nhằm khắc phục hậu quả theo quy
định tại khoản 11 Điều 12 Nghị định
142/2013/NĐ-CP.
Tình huống 2: Công ty A được Ủy ban nhân dân
tỉnh cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản. Theo đó diện tích thăm dò khoáng sản là
1000 ha. Tuy nhiên trong quá trình thăm dò, công ty A đã thăm dò khoáng sản ra
ngoài ranh giới theo Giấy phép thăm dò khoáng sản đã được cấp. Diện tích đã
thăm dò bên ngoài ranh giới là 200 ha. Hỏi Công ty A có vi phạm pháp luật
không? Nếu vi phạm thì bị xử phạt như thế nào?
Trả lời:
Khoản 3
Điều 24 Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản đối với
hành vi vi phạm các quy định về khu vực thăm dò khoáng sản như sau:
“3. Phạt tiền đối với hành vi thăm dò khoáng
sản ra ngoài ranh giới mà diện tích đã thăm dò bên ngoài ranh giới vượt đến 10%
tổng diện tích khu vực được phép thăm dò khoáng sản, cụ thể như sau:
[…]
b) Từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối
với trường hợp thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, trừ trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này;
[…]”
Công ty A
đã có hành vi vi phạm các quy định về khu vực thăm dò khoáng sản. Cụ thể là
hành vi thăm dò khoáng sản ra ngoài ranh giới đã được phê duyệt và quy định
trong Giấy phép thăm dò khoáng sản do UBND tỉnh cấp, diện tích thăm dò bên
ngoài ranh giới là 200 ha (vượt quá 20% tổng diện tích khu vực được phép thăm
dò khoáng sản). Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 24 Nghị định 142/2013/NĐ-CP, công ty A có thể bị phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 70.000.000 đồng.
Ngoài ra, Công ty A còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là buộc
san lấp, phục hồi môi trường trong diện tích khu vực đã thăm dò vượt ra ngoài
diện tích được phép thăm dò, cụ thể đối với diện tích 200 ha vượt quá.
Tình huống 3: Doanh nghiệp A được cấp UBND
tỉnh K cấp phép khai thác khoáng sản tại khu vực X. Sau khi đã hoàn thành công
tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai thác thì do không đảm bảo được số vốn nên
đã chuyển nhượng cho Doanh nghiệp B là một đơn vị có nhu cầu khai thác (Doanh
nghiệp B có đủ điều kiện được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản.). Hai bên đã
ký kết hợp đồng chuyển nhượng, kèm theo bản kê giá trị tài sản chuyển nhượng.
Sau khi ký kết, doanh nghiệp B đã thay thế doanh nghiệp A tiến hành khai thác
tại khu vực X nêu trên. Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản của Doanh
nghiệp A cho Doanh nghiệp B có hợp pháp không? Nếu có vi phạm thì bị xử phạt
như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại điểm e khoản 1 điều 55 Luật khoáng sản 2010 thì Doanh
nghiệp A có quyền chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Theo đó, khi chuyển
nhượng, Doanh nghiệp A phải tuân thủ các điều kiện quy định tại Điều 66 Luật
khoáng sản 2010 quy định về việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản như
sau:
- Tổ chức, cá nhân được cấp Giấy phép
khai thác khoáng sản đã hoàn thành công tác xây dựng cơ bản, đưa mỏ vào khai
thác thì được chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản.
- Tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng quyền
khai thác khoáng sản phải có đủ điều kiện được cấp Giấy phép khai thác khoáng
sản.
- Việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng
sản phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép khai thác
khoáng sản chấp thuận; trường hợp được chấp thuận, tổ chức, cá nhân nhận chuyển
nhượng quyền khai thác khoáng sản được cấp Giấy phép khai thác khoáng sản mới.
Trong tình huống này, Doanh nghiệp A đã hoàn thành công tác xây dựng cơ
bản, đưa mỏ vào khai thác nên được phép chuyển nhượng quyền khai thác khoáng
sản; doanh nghiệp B cũng đủ điều kiện nhận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng
sản. Tuy nhiên, do việc chuyển nhượng này mới chỉ được thực hiện giữa Doanh
nghiệp A và Doanh nghiệp B, chưa được sự chấp thuận của UBND tỉnh K nên chưa
đảm bảo đầy đủ các điều kiện tại điều 66 Luật khoáng sản 2010. Đây là hành vi
vi phạm quy định về việc chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản và bị xử phạt
theo quy định tại Điều 35 Nghị định số 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản, cụ thể:
“Điều 35. Vi phạm quy định về chuyển nhượng
quyền khai thác khoáng sản
Phạt tiền đối với hành vi thực hiện việc
chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản khi chưa được cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền cấp giấy phép chấp thuận, cụ thể như sau:
[…] 2. Từ 120.000.000 đồng đến 150.000.000
đồng đối với khai thác khác thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, trừ trường hợp quy định Khoản 1 Điều này.[…]
Như vậy, với hành vi vi phạm như trên, Doanh nghiệp A có thể bị phạt tiền
từ 120.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng.
Tình huống 4: Công ty cổ phần X được Ủy ban
nhân dân tỉnh X cấp Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Trong giấy phép ghi
rõ vị trí xả nước thải vào nguồn nước tại điểm A. Tuy nhiên, trong quá trình
hoạt động, Công ty X đã thực hiện việc xả nước thải vào nguồn nước tại vị trí B
(cách vị trí A 10m). Hỏi, hành vi của công ty X có bị xử phạt không?
Trả lời:
Khoản 2
Điều 38 Luật tài nguyên nước quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp giấy
phép xả nước thải vào nguồn nước như sau:
“[…] 2. Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép
xả nước thải vào nguồn nước có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành quy định của pháp luật về tài
nguyên nước và thực hiện đúng nội dung của giấy phép; […]”
Như vậy,
trong trường hợp trên, công ty X đã vi phạm nghĩa vụ, không thực hiện đúng nội
dung của giấy phép. Cụ thể, không thực hiện việc xả nước thải vào nguồn nước
tại vị trí quy định trong giấy phép (trong giấy phép là điềm A, thực tế là điểm
B). Công ty X đã có hành vi vi phạm quy định của Giấy phép xả nước thải vào
nguồn nước. Hành vi vi phạm của Công ty X bị xử phạt theo quy định tại Điều 13
Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
tài nguyên nước và khoáng sản như sau:
“Điều
13. Vi phạm quy định của Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước
[…]4.
Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau:
a) Không thực hiện
các biện pháp bảo đảm an toàn, phòng ngừa, khắc phục sự cố trong quá trình xả nước thải vào nguồn nước;
b) Xả nước thải vào
nguồn nước không đúng vị trí quy định trong giấy phép;[…]”
Vậy, căn cứ theo quy định trên, công ty X có
thể bị xử phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Ngoài ra, theo quy
định tại khoản 7 Điều 13 Nghị định 142/2013/NĐ-CP, công ty X còn buộc phải thực
hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước
trong trường hợp hành vi vi phạm trên gây ô nhiễm, suy giảm chất lượng và số
lượng nguồn nước.
Tình huống 5: Doanh nghiệp H đã được UBND
tỉnh T cấp Giấy phép khai thác khoáng sản trong khu vực X, thời hạn 10 năm (từ
tháng 10/2005 đến tháng 10/2015). Sau khi hết hiệu lực của Giấy phép khai thác
khoáng sản, doanh nghiệp H đã lập đề án đóng cửa mỏ khoáng sản trình UBND tỉnh
T và đã được phê duyệt. Theo đề án, khi đóng cửa mỏ khoáng sản, Doanh nghiệp H
sẽ thực hiện các công việc nhằm đưa khu vực khai thác trở lại trạng thái an
toàn: phá hỏa toàn phần hoặc đưa vật liệu chèn lấp từ mặt đất xuống khu vực kết
thúc khai thác, xử lý các đường lò thông gió, đường lò vận chuyển,....Tuy
nhiên, sau khi đóng cửa mỏ khoáng sản, doanh nghiệp H đã không thực hiện các
biện pháp này. Hỏi, hành vi của doanh nghiệp H có vi phạm pháp luật không? Xử
phạt như thế nào?
Trả lời:
Điểm i
khoản 2 Điều 55 Luật khoáng sản năm 2010 quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ
chức, cá nhân khai thác khoáng sản như sau:
“[…] 2. Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
có các nghĩa vụ sau đây:
i) Đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường và đất
đai khi Giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực; […]”
Như vậy,
sau khi Giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực, doanh nghiệp H có
nghĩa vụ đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường và đất đai. Doanh nghiệp H đã thực
hiện đúng trình tự về việc trình đề án đóng cửa mỏ và đã được phê duyệt. Tuy
nhiên, việc không thực hiện các hành vi nhằm đưa khu vực khai thác trở lại
trạng thái an toàn: phá hỏa toàn phần hoặc đưa vật liệu chèn lấp từ mặt đất
xuống khu vực kết thúc khai thác, xử lý các đường lò thông gió, đường lò vận
chuyển,...là vi phạm nghĩa vụ phục hồi môi trường, đất đai khi Giấy phép khai
thác khoáng sản hết hiệu lực. Hành vi vi phạm quy định về đóng cửa mỏ khoáng
sản bị xử phạt theo quy định tại Điều 38 Nghị định 142/2013/NĐ-CP quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản như
sau:
“Điều 38. Vi phạm quy định về đóng cửa mỏ
khoáng sản
[…] 2. Phạt tiền đối với hành vi không thực
hiện các giải pháp đưa khu vực khai thác về trạng thái an toàn, phục hồi đất
đai xác định trong đề án đóng cửa mỏ khoáng sản đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt, cụ thể như sau:
b) Từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối
với khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, trừ trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này; […]”
Như vậy,
theo quy định của điều này, Doanh nghiệp H bị phạt từ 50.000.000 đồng đến
70.000.000 đồng.
Ngoài ra,
theo quy định tại điệm a khoản 5 điều 38 Nghị định 142/2013/NĐ-CP thì doanh
nghiệp X buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện đầy đủ
các giải pháp đưa khu vực khai thác về trạng thái an toàn, phục hồi đất đai
theo đề án đóng cửa mỏ đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Tình huống 6: Gia
đình anh L sinh sống ở Xã B từ năm 2001 song không có bất kỳ giấy tờ nào chứng
tỏ anh có quyền sử dụng đối với mảnh đất mà gia đình đang sinh sống. Trong khi
đó các hộ dân xung quan đều đã được cấp sổ đỏ. Tháng 5/2015 cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định thu hồi mảnh đất của gia đình anh L cùng một số hộ dân xung
quanh để làm dự án mở đường liên tỉnh. Được biết từ tháng 5/2015 trở về trước
toàn bộ xã B là khu vực đã được quy hoạch ổn định và đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt. Khi bị thu hồi đất, hàng xóm của anh L có sổ đỏ và đều
đã được nhận bồi thường về đất. Anh L băn khoăn rằng mảnh đất của gia đình anh
không có sổ đỏ, liệu anh có được bồi thường khi đất bị thu hồi hay không?
Theo
khoản 1Điều 13, Nghị định 47/2014 quy định một số trường hợp không có giấy tờ
về quyền sử dụng đất song vẫn được bồi thường khi đất bị thu hồi như sau:
“ Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền
sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều
18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định
tại Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai, các Điều 20, 22, 23, 25,
27 và 28 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất.”
Đồng thời tại Khoản 2, Điều 101, Luật Đất đai
năm 2013 quy định:
“ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại
Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng
7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp
xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất.”
Như vậy hộ nhà anh L vẫn có thể được nhận bồi
thường khi bị thu hồi đất nếu có xác nhận của UBND xã B rằng gia đình anh L đã
sinh sống ổn định trên mảnh đất từ năm 2001, đất mà gia đình anh đang sinh sống
không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt của
xã B.
Tình huống 7: Bà N là công chức nhà nước. Năm
2003 gia đình bà được cơ quan có thẩm quyền cho thuê một căn nhà cấp 4 ở gần
đường của thị xã để làm nơi ở. Trong quá trình sinh sống tới nay gia đình chị
đã 3 lần đầu tư kinh phí để nâng cấp căn nhà đang xuống cấp, bao gồm sửa mái
ngói, sửa bếp, lát sàn gạch …. Mỗi lần sửa chữa với kinh phí 20 triệu đồng.
Tháng 1 năm 2015 cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thu hồi căn nhà cấp 4 mà
gia đình bà B đang sinh sống để làm dự án mở đường. Bà B băn khoăn liệu mình có
được nhà nước bồi thường kinh phí đã bỏ ra để sửa chữa, nâng cấp nhà hay không?
Theo Khoản
1, Điều 14, Nghị định 47/2014 quy định:
“ Người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước (nhà thuê hoặc nhà do tổ
chức tự quản) nằm trong phạm vi thu hồi đất phải phá dỡ, thì người đang thuê
nhà không được bồi thường đối với diện tích nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và diện
tích cơi nới trái phép, nhưng được bồi thường chi phí tự cải tạo, sửa chữa,
nâng cấp; mức bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.”
Như
vậy, gia đình chị Trần Thị Q thuộc diện được bồi thường đối với chi phí tự cải
tạo, sửa chữa, nâng cấp căn nhà mà chị đang ở.”
Tình huống 8: Gần nhà tôi có một khu chăn nuôi
gia súc tập trung. Khu chăn nuôi thường xuyên xả rác và chất thải ra đường cống
chung của bà con lối xóm, gây tắc nghẽn cống và mùi hôi thối, ô nhiễm môi
trường. Bà con nhiều lần nói chuyện phải trái với gia đình này nhưng họ vẫn
tiếp tục tái diễn. Xin hỏi pháp luật quy định như thế nào về hành vi gây ô
nhiễm môi trường này.
Theo Luật Bảo vệ
môi trường năm 2014 thì việc xả chất thải chưa được xử lý vào môi trường là một trong nhưng hành vi bị
pháp luật nghiêm cấm. Cụ thể tại Khoản 5
Điều 7 Luật bảo vệ môi trưởng năm 2014 quy định như sau: “Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ
thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất,
nguồn nước và không khí.”
Đồng thời, Khu chăn nuôi tập trung phải có phương án bảo vệ môi trường, cụ thể theo Khoản 3 Điều 6 Luật bảo vệ môi
trưởng năm 2014 quy định như sau:
“ Khu chăn nuôi tập
trung phải có phương án bảo vệ môi trường và đáp ứng yêu cầu sau:
a) Bảo đảm vệ sinh
môi trường đối với khu dân cư;
b) Thu gom, xử lý
nước thải, chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải;
c) Chuồng, trại phải
được vệ sinh định kỳ; bảo đảm phòng ngừa, ứng phó dịch bệnh;
d) Xác vật nuôi bị
chết do dịch bệnh phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại
và vệ sinh phòng bệnh”.
Tình huống 9. Tháng 10/2015, công ty trách nhiệm hữu hạn T là chủ dự án
xây dựng cơ sở sản xuất và gia công các sản phẩm may mặc. Trong qua trình sản xuất công ty phải sử dụng
thuốc nhuộm quần áo và chất tẩy trắng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn T nhận được thông báo cần phải thực hiện
đánh giá tác động môi trường. Vậy xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế
nào về vấn đề này?
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi
trường 2014 và Điều 12 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về quy hoạch
bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường
và kế hoạch bảo vệ môi trường thì công ty trách nhiệm hữu hạn T phải thực hiện đánh giá tác động môi
trường cụ thể như sau::
Công ty trách nhiệm hữu hạn T có trách nhiệm tự thực hiện hoặc thuê tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá
tác động môi trường theo quy định tại Điều 19 Luật Bảo vệ môi trường; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thực hiện đánh giá tác động môi
trường và các thông tin, số liệu được sử dụng trong báo cáo đánh giá tác động
môi trường.
Tổ chức tư vấn thực hiện đánh giá tác động môi trường chịu trách nhiệm
trước chủ dự án và trước pháp luật về kết
quả thực hiện đánh giá tác động môi trường và các thông tin, số liệu do mình tạo
lập trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Trong quá trình thực hiện đánh
giá tác động môi trường, Công ty trách
nhiệm hữu hạn T phải tiến
hành tham vấn Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thực hiện dự án, các tổ chức
và cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án; nghiên cứu, tiếp thu những
ý kiến khách quan, kiến nghị hợp lý của các đối tượng liên quan được tham vấn để
hạn chế thấp nhất tác động bất lợi của dự án đến môi trường tự nhiên đa dạng
sinh học và sức khỏe cộng đồng.
Việc tham vấn ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án
và các tổ chức chịu tác động trực
tiếp bởi dự án thực hiện theo quy trình sau đây:
+ Chủ dự án gửi báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án đến Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động trực tiếp
bởi dự án kèm theo văn bản đề
nghị cho ý kiến;
+ Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án và các tổ chức chịu tác động
trực tiếp bởi dự án có văn bản phản hồi trong thời hạn tối đa mười lăm (15)
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản
của chủ dự án, hoặc không cần có văn bản phản hồi trong trường hợp chấp thuận
việc thực hiện dự án.
+ Việc tham vấn cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi dự án được
tiến hành dưới hình thức họp cộng đồng dân cư do chủ dự án và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thực hiện dự án
đồng chủ trì với sự tham gia của những người đại diện cho Ủy ban mặt trận Tổ quốc cấp xã, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ dân phố, thôn, bản được Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập. Ý kiến của
các đại biểu tham dự cuộc họp phải được thể hiện đầy đủ, trung thực trong biên
bản họp cộng đồng.
Tình huống 10: Cách đây 2 năm gần cánh đồng lúa của xã C xuất hiện
một cơ sở sản xuất thức ăn gia súc của Công ty M. Được biết Công ty M không hệ
có hệ thống sự lý nước thải, toàn bộ nước thảo của công ty đều xả thắng ra con
kênh nơi bà con hay dùng hàng ngày múc nước vào đồng gây ảnh hưởng đến năng
suất lúa, làm năng suất lúa giảm hơn so với mọi năm. Xin hãy cho biết hành vi
của công ty M có vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường hay không?
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: “ Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của
mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.”
Đồng thời tại khoản 5 Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định “Thải chất thải chưa được xử lý đạt
quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại
khác vào đất, nguồn nước và không khí” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực môi trường.
IV. CÁC
TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM
Tình huống 1: Cửa hàng chả lụa T là
cửa hàng làm giò chả có tiếng và lâu đời ở Hà Nội. Một ngày cửa hàng có thể
tiêu thu hàng chục tạ thịt lợn. Tuy nhiên, thời gian gần đây cạnh cửa hàng T
xuất hiện một siêu thị lớn làm ảnh hưởng tới doanh thu của cửa hàng. Để thu hút
trở lại khách hàng, cửa hàng quyết định giảm giá bán tất cả loại giò chả của
cửa hàng. Do cửa hàng giảm giá cao nên đã thu hút được một lượng lớn người mua.
Nhưng không may, trong một lần kiểm tra, thanh tra y tế Hà Nội phát hiện cửa
hàng T đã sử dụng thịt lợn chưa qua kiểm tra vệ sinh thú y để làm giò chả nhằm
giảm chi phí sản xuất. Tại thời điểm phát hiện, số thịt lợn vi phạm có giá trị
lên đến 40 triệu đồng. Thanh tra y tế đã lập biên bản xử phạt đối với cửa hàng
T.
Bình luận
Trường hợp sử dụng thịt lợn chưa qua kiểm tra
vệ sinh thú y theo quy định để làm giò chả của cửa hàng T là hành vi vi phạm
quy định về sử dụng nguyên liệu thực phẩm trong sản xuất, chế biến thực phẩm
theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP
Theo quy định mức phạt tiền đối với cá nhân
có hành vi vi phạm là bằng 80% đến 100% tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời
điểm vi phạm và mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với
cá nhân có cùng hành vi, do đó cửa hàng T sẽ bị phạt tiền bằng 160% đến
200% tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại
thời điểm vi phạm tức là từ 64 đến 80 triệu đồng do số thịt lợn vi phạm có tổng
giá trị là 40 triệu đồng. Ngoài ra, cửa hàng T còn phải áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả là buộc thực hiện kiểm tra vệ sinh thú y đối với số thịt lợn trên
theo điểm a khoản 9 Điều 5 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.
Tình huống 2: Doanh nghiệp A kinh
doanh trong lĩnh vực sản xuất nước giải khát. Là một doanh nghiệp có tiếng trên
thị trường, đặc biệt là sản phẩm nước ép hoa quả rất được người tiêu dùng ưa
chuộng vì độ ngọt và màu sắc tươi mới. Tuy nhiên do sơ sót trong quá trình quản
lý, sử dụng hóa chất tạo màu, doanh nghiệp A đã để quá thời hạn sử dụng của lô
hóa chất tạo màu sử dụng cho sản phẩm nước ngọt của mình. Sự việc đã bị thanh
tra phát hiện và lập biên bản xử lý.
Bình luận:
Trường hợp của doanh nghiệp A do đã sử dụng
hóa chất tạo màu được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến nước ngọt
nhưng để quá thời hạn sử dụng nên hành vi của doanh nghiệp A thuộc hành vi vi
phạm quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.
Theo đó hành vi của doanh nghiệp A sẽ bị phạt
tiền với mức gấp 02 lần mức phạt của cá nhân có cùng hành vi vi phạm được, theo
đó là từ 40.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp A sẽ phải
chịu hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ hoạt động sản xuất, chế biến thực
phẩm từ 02 tháng đến 04 tháng và phải tiêu hủy số hóa chất quá thời hạn sử dụng
nêu trên.
Tình huống 3: Ông A là chủ một hồ
đẩm chuyên nuôi tôm bán cho các thương lái. Năm 2015, do giá thành thức ăn tôm
tăng nên nếu tiếp tục nuôi tôm như thông thường, trừ chi phí bỏ ra, tiền lãi sẽ
không được bao nhiêu. Được người bạn mách cho việc tiêm tạp chất vào tôm nguyên
liệu sẽ giúp tăng trọng lượng của tôm, tôm sẽ đẹp và bán được giá hơn, ông A đã
ra thực hiện bơm, chích tạp chất vào 150 kg tôm nguyên liệu mới nhập về. Trong
quá trình thực hiện, hành vi của ông A đã bị cơ quan chức năng bắt quả tang.
Bình luận:
Việc bơm tạp chất vào tôm của ông A thuộc
hành vi đưa tạp chất vào thủy sản có mức phạt tiền được quy định tại điểm a
khoản 5 Điều 16 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau: “Phạt tiền từ
300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi trực tiếp đưa tạp chất vào thủy
sản;”. Ngoài ra, ông A còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc
loại bỏ tạp chất đối với 150kg tôm bị tiêm tạp chất, trường hợp không loại bỏ
được tạp chất thì buộc tiêu hủy đối với số tôm trên (điểm b khoản 9 Điều 16).
Tình huống 4:
Chị M là chủ một cửa hàng ăn nhanh chuyên
phục vụ ăn sáng cho công nhân tại khu công nghiệp X. Do mặt bằng cửa hàng nhỏ
lại chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực ăn uống nên việc bố trí
khu vực chế biến thức ăn và nơi bày bán thức ăn còn nhiều điểm chưa hợp lý. Khu
vực chế biến thực ăn phải đặt sát khu vực vệ sinh của cửa hàng. Trong một lần
bị thanh tra kiểm tra, cửa hàng chị đã bị xử phạt 1.000.000 đồng do vi phạm quy
định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong kinh doanh dịch vụ ăn uống
thuộc loại hình cửa hàng ăn uống, cửa hàng, quầy hàng kinh doanh thức ăn ngay,
thực phẩm chín. Hành vi được xác định là do cửa hàng chị không có bàn bày thức
ăn cao hơn mặt đất theo quy định và sử dụng khu vực chế biến, bảo quản, nơi ăn
không bảo đảm vệ sinh.
Việc xử phạt của
thanh tra đã đúng hay chưa? Trường hợp có người bị ngộ độc sau khi sử dụng thức
ăn của cửa hàng chị thì cửa hàng chị M sẽ bị xử lý như thế nào?
Bình luận:
Việc xử phạt của thanh tra đối với cửa hàng
chị M là chính xác, theo đúng quy định tại điểm a và c khoản 1 Điều 20 Nghị
định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong
các hành vi sau đây:
a) Bày bán thức ăn ngay, thực phẩm chín không có thiết bị bảo quản hợp
vệ sinh, không có bàn hoặc giá cao hơn mặt đất theo quy định;
c) Sử dụng khu vực chế biến, bảo quản, nơi ăn không bảo đảm vệ sinh hoặc
có côn trùng, động vật gây hại;”
Trường hợp có người bị ngộ độc sau khi sử dụng thức ăn của cửa
hàng chị M, thì cửa hàng chị sẽ phải chịu xử lý theo điểm đ khoản 2 Điều 20 đối
với hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến
ngộ độc thực phẩm. Hành vi này có mức xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng và phải chịu mọi chi phí cho việc
xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm do sử dụng
thực ăn của cửa hàng chị.
Ngoài ra trong trường hợp cửa hàng chị tiếp tục để xảy ra trường
hợp ngộ độc khác thì sẽ bị đình chỉ hoạt động kinh doanh ăn uống từ 01 tháng
đến 03 tháng.
Tình huống 5: Năm 2015, công ty X thuê công ty Y là doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ ăn uống cung cấp các suất ăn sẵn cho nhân viên. Qua một thời gian sử
dụng dịch vụ của công ty Y, công ty X đã nhận được nhiều phản ánh từ nhân viên
là suất ăn không bảo đảm vệ sinh. Công ty X đã gửi các phản ánh này đến công ty
Y và yêu cầu công ty Y phải cải thiện chất lượng bữa ăn và nâng cao công tác vệ
sinh bảo đảm an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, chất lượng vẫn không được cải thiện
và đã xuất hiện một số nhân viên sau khi sử dụng suất ăn của công ty Y có dấu
hiệu ngộ độc. Công ty X đã báo cáo cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý.
Bình luận:
Trong trường hợp này, nếu việc ngộ độc của nhân viên công ty X sau
khi sử dụng suất ăn của công ty Y được các cơ quan chức năng xác định là do
hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm của công ty
Y gây nên thì công ty Y sẽ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
(theo khoản 4 Điều 21 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP) và bị đình chỉ hoạt động
kinh doanh dịch vụ ăn uống từ 01 tháng đến 03 tháng trong trường hợp tiếp tục
để xảy ra trường hợp ngộ độc do kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an
toàn thực phẩm của mình gây nên. Ngoài ra, công ty Y phải chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều
trị người bị ngộ độc thực phẩm
Trong trường hợp, các cơ quan chức năng xác định công ty Y không
có hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến
việc ngộ độc thì công ty sẽ chỉ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 21 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh nơi có cơ sở chế biến suất
ăn sẵn, căng tin kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể, bếp ăn, nhà hàng ăn uống
của khách sạn, khu nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn uống xảy ra ngộ độc thực phẩm.”
Tình huống 6: Anh A là người kinh doanh nem chua rán tại cổng trường tiểu học X.
Trong quá trình chế biến thực ăn, anh A nhiều lần dùng tay trực tiếp cầm đề rán
nem chua. Hành vi này của anh A có vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm hay không và chế tài xử lý đối với hành vi này?
Bình luận
Việc sử dụng tay trực tiếp tiếp xúc với nem chua của anh A là hành
vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm quy định tại điểm e khoản 1
Điều 22 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: “Dùng tay tiếp xúc trực tiếp với thức ăn”.
Hành vi này của anh A có mức xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
300.000 đồng đến 500.000 đồng theo khoản 1 Điều 22 Nghị định sô 178/2013/NĐ-CP.
Tình huống 7: Ngày 20/5/2014, anh X được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an
toàn thực phẩm cho cơ sở nấu rượu thuộc phạm vi quản lý của huyện Y. Ngày
20/7/2017, thanh tra ngành công thương phát hiện giấy chứng nhận đủ điều kiện
an toàn thực phẩm của cơ sở nấu rượu của anh X đã hết thời hạn nhưng anh X chưa
làm thủ tục cấp lại. Thanh tra đã lập biên bản để xử phạt đối với hành vi này.
Bình luận:
Việc anh X để giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm
hết hạn nhưng chưa làm thủ tục cấp lại mà vẫn tiếp tục sử dụng là hành vi vi
phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm. Do cơ sở sản xuất rượu của anh X thuộ phạm
vi quản lý của cấp huyện nên mức xử phạt đối với hành vi này của anh X được quy
định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP.
Căn cứ theo Điều 7 Thông tư số 58/2014/TT-BCT ngày 22/12/2014 quy
định cấp, thu hồi giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm thuộc
trách nhiệm quản lý của Bộ công thương thì hiệu lực của giấy chứng nhận là 03
năm kể từ ngày cấp. Như vậy, thời điểm giấy chứng nhận của cơ sở anh X là vào
ngày 20/5/2017, do đó thời điểm phát hiện ra hành vi vi phạm (20/7/2017), giấy
chứng nhận đã hết thời hạn được 02 tháng vì thế mức xử phạt đối với hành vi này
của anh X được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 24 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP,
cụ thể như sau: “b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với
hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã hết thời
hạn từ 01 tháng đến 03 tháng;”
Tình huống 8: Hải quan tỉnh X vừa thu giữ một lô hàng gồm 1 tấn táo có xuất xử
từ Mỹ được công ty B nhập khẩu vào Việt Nam để tiêu thụ. Lý do là trong quá
trình kiểm tra, hải quan đã phát hiện một số giấy tờ do công ty B cung cấp là
giả mạo. Giấy tờ giả mạo được xác định là bản
thông báo kết quả xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khẩu. Vậy theo quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, công ty
B sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Do công ty B đã cung cấp và sử dụng bản thông báo kết quả xác nhận
thực phẩm đạt yêu cầu nhập khảo giả nên căn cứ vào khoản 4 Điều 25 Nghị định số
178/2013/NĐ-CP thì công ty B sẽ phải chịu mức phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến
80.000.000 đồng (mức phạt gấp 02 lần mức
phạt cho cá nhân quy định tại khoản 4 Điều 25).
Ngoài ra, công ty B phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là
buộc tiêu hủy giấy tờ giả đã sử dụng là bản thông báo kết quả xác nhận thực
phẩm đạt yêu cầu nhập khảo.
Tình huống 9: Trong một lần tổng kiểm tra các cơ sở kinh doanh ăn uống trên địa
bàn thành phố Y, thanh tra đã phát hiện một lượng lớn heo đã bị ôi thiu, biến
đổi màu sắc được cơ sở giết mổ Z nhập về để chế biến bán lại cho các tiểu
thương tại các chợ trong thành phố. Qua đánh giá ban đầu, số lượng thịt heo bị
ôi thiu có giá trị khoảng 50 triệu đồng. Với hành vi vi phạm này, cơ sở Z sẽ bị
xử lý như thế nào
Trả lời:
Hành vi chế biến và bán lại thịt heo đã bị ôi thiu, biến đổi màu sắc của cơ sở Z đã vi phạm quy định về điều
kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh động vật,sản phẩm động
vật tươi sống sử dụng làm thực phẩm căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 17 Nghị định
số 178/2013/NĐ-CP: “a) Kinh doanh thực phẩm tươi sống có nguồn gốc động vật
trên cạn bị ôi thiu, biến đổi màu sắc, mùi vị;”
Theo đó, mức xử phạt đối với hành vi này của tổ chức là bằng 200% đến
240% tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm
vi phạm đối với một trong các hành vi sau đây nhưng số tiền phạt tối đa không
vượt quá 200.000.000 đồng. Do giá trị số thịt heo bị ôi thiu được phát hiện tại
thời điểm vi phạm được định giá là khoảng 50 triệu đồng nên số tiền cơ sở X phải
nộp vào khoảng 100 triệu đồng đến 120 triệu đồng. Ngoài ra, cơ sở X bị buộc
tiêu hủy số thịt heo vi phạm.
Tình huống 10: Trong quá trình kiểm tra nhà mày bánh kẹo X, thanh tra nghi ngờ một số
mẫu bánh kẹo của doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm các quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm. Thanh tra đã yêu cầu doanh nghiệp X cung cấp đầy đủ các giầy tờ
chứng minh nguồn gốc xuất xứ, chất lượng… Tuy nhiên, doanh nghiệp X tỏ ý không
hợp tác và nhiều lần từ chối việc chuyển giao các giấy tờ theo yêu cầu lấy lý
do là giầy tờ đã bị thất lạc. Vậy trong trường hợp này, thanh tra có thể xử lý
đối với doanh nghiệp X hay không?
Trả lời:
Trường hợp
doanh nghiệp X từ chối không cung cấp thông tin về các mẫu bánh kẹo theo yêu cầu
của thanh tra thì có thể xử lý doanh nghiệp X đối với hành vi vi phạm quy định
về thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm theo điểm a khoản 1
Điều 27 Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau: “a) Không cung cấp thông tin về an toàn thực phẩm theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền;”. Mức xử phạt đối với hành vi này của doanh
nghiệp là từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Ngoài ra, trường hợp
thanh tra xác minh được số bánh kẹo này vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm
thì có thể tiếp tục xử phạt doanh nghiệp theo những quy định tương ứng với hành
vi vi phạm.
Tình huống 11: Cơ sở sản xuất giò lụa Ngọc Mai lâu nay nổi tiếng
trên địa bàn huyện X với sản phẩm giò lụa rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, đã 2
tuần nay, tình hình kinh doanh của cơ sở này rơi vào tình trạng ế ẩm, sản phẩm
vẫn như vậy mà người đến mua thì thưa thớt. Qua thăm dò tìm hiểu nguyên nhân
thì được biết, người dân địa phương rỉ tai nhau việc cơ sở sản xuất Ngọc Mai vi
phạm pháp luật vì sử dụng 02 nhân công mắc bệnh truyền nhiễm ngoài ra nên người
dân không muốn đến mua hàng nữa. Tuy nhiên, khi được hỏi, bà Mai chủ cơ sở này
cho biết, vì cơ sở đang rất thiếu người làm, mặt khác truyền nhiễm ngoài da là
bình thường, quá trình làm có dùng găng tay nên việc sử dụng 02 nhân công này
không thể coi là vi phạm. Quan điểm của bà Mai bị phản ứng rất mạnh mẽ
Trả lời:
Theo khoản 9, Điều 5,
Luật An toàn thực phẩm 2010, một trong những hành vi bị cấm là : “Người mắc bệnh truyền nhiễm tham gia sản xuất,
kinh doanh thực phẩm”.
Căn cứ quy định trên, việc cơ sở Ngọc Mai sử
dụng 02 nhân công bị mắc truyền nhiễm 1 2: Ngay khi bị cơ quan chức năng đến kiểm tra và kết luận lô hàng
mà nhà máy thực phẩm đông lạnh ABC vừa xuất ra thị trường có sử dụng một số
loại hoá chất tuy được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất chế biến thực phẩm
nhưng không có thời hạn sử dụng, đại diện nhà máy ABC vẫn nhất mực cho rằng,
nhà máy ABC không hề sai phạm vì hoá chất không có thời hạn sử dụng tức là được
sử dụng mãi mãi. Tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn tiến hành xử phạt, nhiều công
nhân nhà máy cho rằng điều này là không đúng với quy định pháp luật.
Việc cơ quan chức năng xử phạt hành vi vi phạm của
nhà máy ABC là hoàn toàn chính xác.
Theo Điều 7, Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013
quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:
“1.
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất
được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá thời hạn
sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng.”
Như vậy, hành vi của nhà mát ABC sử dụng một số loại hoá chất tuy
được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất chế biến thực phẩm nhưng không có thời
hạn sử dụng là vi phạm pháp luật và như vậy phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Tình huống 13: Từ khi khai trương đến nay, nhà hàng Linh Chi có
doanh thu về dịch vụ ăn uống rất cao vì được đánh giá là đồ ăn ngon, giá cả phải
chăng, phục vụ chu đáo và đã được cấp chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn vệ
sinh thực phẩm nên khách hàng rất tin tưởng. Tuy nhiên, qua đợt kiểm tra của cơ
quan chức năng, đã phát hiện nhà hàng Linh Chi sử dụng Giấy chứng nhận an toàn
vệ sinh thực phẩm giả. Khi được biết thông tin, nhiều khách hàng rất bức xúc,
cho rằng phải xử phạt thật mạnh tay, tuy nhiên, phần nhiều trong số họ không
biết chính xác mức xử phạt đối với hành vi này là như thế nào?
Trả lời:
Theo khoản 1, Điều 24, Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013
quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:
“1. Xử phạt đối với hành vi kinh doanh dịch
vụ ăn uống vi phạm quy định về giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực
phẩm thuộc phạm vi quản lý của cấp xã theo một trong các mức sau đây:
a) Phạt cảnh cáo đối với hành vi sử dụng giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã hết thời hạn dưới 01 tháng;
b) Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng
đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đã
hết thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng;
c) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000
đồng đối với hành vi không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực
phẩm theo quy định hoặc có nhưng đã hết thời hạn trên 03 tháng;
d) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến
2.000.000 đồng đối với hành vi sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung giấy chứng
nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm;
đ) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an
toàn thực phẩm giả.”
Như vậy, trường hợp của nhà hàng Linh Chi được quy định tại điểm
đ, vì vậy mức phạt cụ thể là từ 2,000,000 đồng đến 3,000,000 đồng.
Tình huống 14: Chị Nguyễn Thị A là người rất thích các món ăn
đường phố, chị thường xuyên đến quán bún ốc của bà Lê Thị M để thưởng thức món
ăn này. Tuy nhiên, mấy lần gần đây, chị đến quán thì thấy quán không còn mở cửa
nữa, nghe người dân xung quanh nói, bà M quyết định đóng cửa quán một thời gian
vì vừa mới bị kiểm tra và phát hiện không đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Chị A
vẫn băn khoăn không hiểu tại sao quán của bà M không đủ điều kiện an toàn vì
theo chị bún ốc ở quán bà M rất ngon.
Trả lời:
Theo Điều 32,
Luật an toàn vệ sinh thực phẩm 2010, điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối
với nguyên liệu, dụng cụ ăn uống, chứa đựng thực phẩm và người kinh doanh thức
ăn đường phố là:
“1. Nguyên liệu để chế biến thức ăn đường phố phải bảo đảm an toàn
thực phẩm, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
2. Dụng cụ ăn uống, chứa đựng thực phẩm phải bảo đảm an toàn vệ
sinh.
3. Bao gói và các vật liệu tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm không
được gây ô nhiễm và thôi nhiễm vào thực phẩm.
4. Có dụng cụ che nắng, mưa, bụi bẩn, côn trùng và động vật gây
hại.
5. Có đủ nước đạt quy chuẩn kỹ thuật phục vụ việc chế biến, kinh
doanh.
6. Tuân thủ quy định về sức khoẻ, kiến thức và thực hành đối với
người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm”.
Quán của bà M bị phát hiện và kiểm tra không đủ điều kiện an toàn
thực phẩm vì có thể không đảm bảo đầy đủ các yêu cầu trên.
Tình huống 15: Gần đến dịp tết nguyên đán, cơ quan chức năng huyện
X tiến hành đợt kiểm tra đột xuất với một loạt cơ sở chế biến thực phẩm trên
địa bàn huyện. Tại cơ sở chế biến thịt hộp của anh Trần Văn K, sau khi truy
xuất về nguồn gốc đối với thịt lợn mà cơ sở của anh K sử dụng, cơ quan chức
năng quyết định tiến hành xử phạt với lí do hồ sơ chứng minh về nguồn gốc của
anh không đầy đủ, anh K băn khoăn không hiểu hành vi vi phạm của mình được quy
định cụ thể ở đâu và
Theo Điều 30 Nghị định Số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013
quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm:
“1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến
5.000.000 đồng đối với hành vi không lưu giữ hoặc lưu giữ không đầy đủ hồ sơ về
nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm,
vật liệu bao gói, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm và các tài liệu khác
về quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không thông báo lô sản phẩm không bảo đảm
an toàn;
b) Không báo cáo số lượng sản phẩm của lô sản
phẩm không bảo đảm an toàn, tồn kho thực tế và đang lưu thông trên thị trường;
kế hoạch thu hồi và các biện pháp xử lý.
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000
đồng đối với hành vi thực hiện thu hồi, xử lý không theo đúng yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn.
4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng đối với hành vi không tiến hành thu hồi, thực hiện các biện
pháp xử lý cần thiết theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với thực
phẩm không bảo đảm an toàn.”
Như vậy hành vi vi phạm của cơ sở sản xuất
thịt hộp của anh K được quy định tại khoản 1 điều này.
V. TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ LĨNH VỰC
AN TOÀN GIAO THÔNG
Tình huống 1: Anh A đang điều khiển ô tô đến cơ quan. Do mải mê nghe điện thoại không
để ý nhìn đường, anh A đã đâm phải một xe máy đi ngược chiều do anh B điều
khiển. Khi thấy anh B ngã ra đường do quá lo sợ anh A đã điều khiển xe chạy
trốn. Do khu vực này ít người qua lại nên phải hơn 30 phút sau mới có người
phát hiện đưa anh B vào bệnh viện. Qua lời khai của anh B, công an đã xác minh
thủ phạm gây ra tai nạn là anh A. Vậy trong trường hợp này, theo các quy định
về an toàn giao thông, anh A sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Trong trường hợp này, việc anh A gây tai nạn và lái xe bỏ trốn
được coi là hành vi gây tai
nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến
trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn quy định tại điểm b khoản 6 Điều 5 Nghị định số
171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, anh A sẽ bị phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000
đồng.
Trong trường hợp, xác định được việc gây tai nạn của anh A là do
không chú ý quan sát và điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định đối với đoạn
đường đó khi gây tai nạn, anh A còn phải bị xử lý theo điểm c khoản 7 Điều 5
Nghị định số 171/2013/NĐ-CP với mức phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng.
Ngoài việc bi phạt tiền, anh A còn bị tước quyền
sử dụng Giấy phép lái xe ô tô 02 tháng theo quy định tại điểm c khoản 11 Điều 5
Nghị định số 171/2013/NĐ-CP
Tình huống 2: Anh A là người thích tụ tập với bạn bè để
ăn nhậu. Trong một lần tụ tập bạn bè mừng tân gia của một người bạn trong nhóm,
do uống khá nhiều nên dù tửu lượng cao, A cũng cảm thấy chếnh choáng. A đã xin
ngủ nhờ lại nhà B cho tỉnh rượu. Sau khi ngủ lại khoảng 1 tiếng thấy mình đã
bớt say, A liền lấy xe máy chạy về nhà. Khi lưu thông trên đường do còn hơi
rượu trong người, A đã cởi mũ bảo hiểm đi cho thoáng. Đến ngã tư gần nhà, A bị
công an giao thông giữ lại để xử phạt vì hành vi không đội mũ bảo hiểm. Thấy A có
hơi rượu, công an đã yêu cầu A cho thử nồng độ cồn nhưng A không chấp hành yêu
cầu do bản thân đã tỉnh rượu. Tuy nhiên, sau khi áp dụng các biện pháp nghiệp
vụ, công an đã xác định nồng độ cồn của A là 0,3 miligam/1 lít khí thở. Vậy
theo quy định của pháp luật, trường hợp A sẽ được xử lý như thế nào?
Bình luận:
Trong trường hợp này A đã thực hiện 03 hành vi vi phạm pháp luật
giao thông cụ thể như sau:
- Hành vi thứ nhất, không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe máy
(điểm i khoản 3 Điều 6 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP)
- Hành vi thứ hai, không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn
của người kiểm soát giao thông (điểm b khoản 6 Điều 6 Nghị định số
171/2013/NĐ-CP);
- Hành vi thứ ba, điều khiển xe trên đường mà có nồng độ cồn trong
hơi thở vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở (điểm b khoản 5
Nghị định số 171/2013/NĐ-CP).
Đối với mỗi hành vi trên, A sẽ có mức xử phạt tương ứng cụ thể như
sau:
- Đối với hành vi không đội mũ bảo hiểm, anh A sẽ bị phạt tiền từ
100.000 đồng đến 200.000 đồng
- Đối với hành vi không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn
của người kiểm soát giao thông, anh A sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng. Ngoài ra, anh A sẽ bị tước quyền sử dụng Giấy phép lai xe 02
tháng đối với hành vi này.
- Đối với hành vi điều khiển xe trên đường mà có nồng độ cồn trong
hơi thở vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở, anh A sẽ bị phạt
tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Ngoài ra, anh A sẽ bị tước quyền sử
dụng Giấy phép lái xe 01 tháng.
Tình huống 3: Sau khi kết thúc vụ xuân, chị C
định đem thóc ra sân phơi khô để kịp đem vào trong nhà bảo quản. Tuy nhiên do
số lượng lớn, nên nếu chỉ phơi trong nhà thì sẽ mất rất nhiều thời gian. Được
một số người mách, con đường liên huyện buổi tối ít người qua lại, mặt đường
lại rộng rất tiện cho việc phơi thóc, chị liền đem thóc ra ngoài đường phơi .
Sau khi đem thóc ra phơi được một hôm, chị bi công an xã gọi lên lập biển bản
xử phạt vì hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ. Số tiền xử phạt chị là
100.000 đồng.
Bình luận
Hành vi phơi thóc ra đường liên huyện của chị đã vi phạm điểm a
khoản 1 Điều 11 Nghị định số 171/2013/NĐ-CP: “a) Phơi thóc, lúa, rơm, rạ,
nông, lâm, hải sản trên đường bộ”
Theo đó mức xử phạt đối với cá nhân thực hiện hành vi này là phạt
tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Như vậy, việc xử phạt của công an xã đối
với hành vi của chị là chính xác và đúng theo quy định của pháp luật.
Tình huống 4: Anh A có một cửa hàng ăn nằm mặt đường phố Nguyễn Thái Học. Do lượng
khách ra vào quán đông, quán lại không có chỗ gửi xe, anh A quyết định lấy 15 m2
hè phố trước cửa quán làm nơi để xe cho khách. Vậy theo quy định của pháp
luật, hành vi này của anh A có vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao
thông hay không? Được biết việc để xe của quán anh A chưa được các cấp có thẩm
quyền cho phép.
Bình luận:
Hành vi chiếm dụng 15 m2 hè phố làm nơi trông, giữ xe của
anh A mà chưa được các cấp có thẩm quyền cho phép là hành vi vi phạm quy định về
trật tự an toàn giao thông được quy định tại điểm b khoản 5 Điều 12 Nghị định số
171/2013/NĐ-CP: “b) Chiếm dụng lòng đường đô thị hoặc hè
phố từ 10 m2 đến dưới 20 m2 làm nơi trông, giữ
xe”
Theo đó, đối với hành vi này anh A sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000
đồng đến 7.000.000 và anh A còn phải buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của
hè phố đã bị thay đổi do việc trông, giữ xe của mình gây nên.
Tình huống 5: Em Nguyễn Văn B là học sinh trường lớp 12 trường trung học phổ thông X.
Do là học sinh cuối cấp, chuẩn bị thi đại học nên bố mẹ quyết định mua cho B
một chiếc xe máy để tiết kiệm thời gian và thuận tiện cho việc đi lại. Tuy
nhiên, trong một lần tham gia giao thông, do thấy B mặc đồng phục trường cấp 3,
công an giao thông đã giữ B lại để kiểm tra giấy tờ thì phát hiện B mới được 17
tuổi 6 tháng. Ngoài ra, khi kiểm tra B có mang theo giấy đăng ký xe nhưng lại
không mang theo giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Vậy theo quy định của pháp luật, trường hợp của B sẽ được xử lý như thế nào?
Được biết xe mô tô mà B điều khiển có dung tích xi lanh dưới 50 cm3
Bình luận:
Trường hợp này, do B điều khiển xe máy có dung tích xi lanh dưới
50 cm3 khi đã trên 16 tuổi (17 tuổi 6 tháng) nên căn cứ theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 60 Luật giao thông đường bộ năm 2008 thì B được
phép lái loại xe gắn máy. Vì thế hành vi của B không vi phạm các quy định về
trật tự, an toàn giao thông.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về giấy phép lái xe (Điều 59
Luật giao thông đường bộ) thì không có giấy phép lái xe cho xe mô tô hai bánh
có dung tích xi lanh dưới 50 cm3, do đó không thể xử phạt B do không
có giầy phép lái xe.
Tuy nhiên căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 21 Nghị định số
171/2013/NĐ-CP quy định: “2. Phạt tiền từ 80.000 đồng
đến 120.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
Do đó, việc B không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới là hành vi vi phạm quy định về trật tự, an toàn giao
thông và sẽ bị xử phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng.
Trả lời:
Khoản 7, điều 6, Nghị định
71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
giao thong đường bộ và đường sắt quy định như sau:
“7. Phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện
một trong các hành vi vi phạm sau đây:
b) Điều khiển xe lạng
lách hoặc đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị;
c) Điều khiển xe chạy bằng
một bánh đối với xe hai bánh, chạy bằng hai bánh đối với xe ba bánh;
d) Điều khiển xe thành
nhóm từ 02 (hai) xe trở lên chạy quá tốc độ quy định.”
Như vậy, hành vi của T và Q trong tình huống trên đã vi phạm điểm
b và khoản c của khoản 7, điều 6 nêu trên. Mức phạt tối đa đối với hai thanh
niên trên có thể lên tới 14 triệu đồng.
Tình huống 7: Chị Phạm Thị B là người trồng cây cảnh ở xã Văn
Giang tỉnh Hưng Yên. Ngày 20/1/2015, vào dịp Tết Ất Mùi chị B cùng chồng đem
cây quất cảnh lên ngã ba đường tỉnh lộ gần nhà bán. Chồng chị B nảy ra sáng
kiến làm giá để cây theo tầng để đặt cây quất cảnh lên cao cho người đi đường
nhìn thấy gian hàng của anh chị từ đằng xa. Tuy nhiên, giá đỡ cây quất cảnh quá
cao làm cho dàn quất cảnh của anh chị khi để lên giá cao nhất đã che khuất biển
báo giao thông cấm dừng đỗ xe cắm ở ngã ba đường. Cùng ngày hôm đó, cảnh sát
Tống Văn H được cử làm nhiệm vụ tại ngã ba nơi anh, chị B bán quất cảnh. Thấy
giá quất cảnh của anh, chị B như vậy, cảnh sát H sẽ xử trí như thế nào?
Trả lời:
Điều 11, Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực giao thong đường bộ và đường sắt quy định:
“Điều 11. Xử phạt các hành vi
vi phạm khác về quy tắc giao thông đường bộ
a) Phơi thóc, lúa, rơm, rạ,
nông, lâm, hải sản trên đường bộ;
b) Tập trung đông người
trái phép, nằm, ngồi trên đường gây cản trở giao thông;
a) Họp chợ, mua, bán hàng
hóa trên đường bộ ngoài đô thị;
b) Để vật che khuất biển
báo, đèn tín hiệu giao thông.
a) Sử dụng đường bộ trái
quy định để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội;
d) Đặt, treo biển quảng
cáo trên đất của đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị;
đ) Không cứu giúp người bị
tai nạn giao thông khi có yêu cầu;
Theo điều 11, khoản 2,
điểm b trên đây, hành vi để cây quất cảnh che khuất biển báo giao thông của
anh, chị B đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ và có thể bị phạt
từ 200.000 đồng – 400.000. Cảnh sát Nguyễn Văn H cần giải thích rõ hành vi vi
phạm đó cho vợ chồng chị B và áp dụng các biện pháp xử phạt theo quy định.
Tình huống 8: Vợ chồng anh Trần Quyết T và chị Trương Thị M sinh
sống trong làng H gần đường quốc lộ 1A. Do tình hình làm nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn, từ đầu năm 2011, hai vợ chồng anh chị đã ra mép đường ngã 4 giao cắt
giữa đường quốc lộ 1A và đường tỉnh lộ gần đó đặt sạp hàng bán bánh mỳ và đồ
tạp hóa. Lâu ngày công việc bán hàng thuận lợi, đến đầu năm 2014, anh, chị
quyết định xây cất một ngôi nhà cấp 4 bằng gạch ở nơi bán hàng để vừa bán hàng
vừa làm nơi ở. Do ngã tư đó chưa có vỉa hè nên anh, chị xây nhà cấp 4 của mình ra
sát mép đường để bán hàng cho tiện. Đến tháng 5/2014 công việc xây dựng hoàn
tất. Ngay sau khi xây nhà xong, anh, chị bị cơ quan có thẩm quyền tới lập biên
bản xử lý. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền cần xử lý vi phạm của vợ
chồng anh T và chị M như thế nào?
Trả lời:
Điều 12, Nghị định 71/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực giao thong đường bộ và đường sắt quy định:
a) Xây dựng nhà ở trái
phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị;
d) Chiếm dụng lòng đường
đô thị hoặc hè phố dưới 05 m2 làm nơi trông, giữ xe.”
Như vậy, việc xây nhà ở kiêm bán hàng của vợ chồng anh T và chị M
đã vi phạm điều 12, khoản 3, điểm a. Cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành xử
phạt hành vi vi phạm của anh, chị với mức phạt từ 2 triệu – 3 triệu đồng.
Tình huống 9: Lâm Văn T và Lò Văn Q là hai thanh niên đang không
có nghề nghiệp ổn định ở Huyện K, Tỉnh H. Ngày 1/5/2015 hai thanh T và Q đi xe
máy trong thị trấn, va chạm với anh Quàng Văn N. Hai bên cãi vã nhau một hồi
rồi không ai chịu ai. Rút cục T và Q lao vào đánh anh N. Anh N cũng không chịu
nên cũng lao vào đánh nhau với T và Q gây náo loạn cả một góc phố thị trấn. Rất
may là lực lượng công an thị trấn đã có mặt kịp thời để khống chế và đưa cả ba
thanh niên về trụ sở công an thị trấn để giải quyết. Công an thị trấn sẽ xử lý
hành vi đánh nhau của ba thanh niên T, Q và N như thế nào?
Trả lời:
Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ
nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy;
phòng chống bạo lực gia đình quy định:
“Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng
1. Phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong
những hành vi sau đây:
a) Có
cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của người khác;
b) Gây
mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi
tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ
quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên
đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;
c) Thả
rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.
2. Phạt
tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau
đây:
a) Đánh
nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;
b) Báo
thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Say
rượu, bia gây mất trật tự công cộng;
d) Ném
gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông,
vào người, đồ vật, tài sản của người khác;
đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất
trật tự công cộng;
e) Để động
vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;
g) Thả
diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác
ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;
h) Sách
nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các
bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.
3. Phạt
tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau
đây:
a) Tàng
trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa,
các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động,
sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương
tích cho người khác;
b) Lôi
kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;
c) Thuê
hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;
d) Gây
rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây
trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;
đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành
quyết định cưỡng chế;
e) Xâm
hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;
g) Lợi
dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
h) Gây
rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức;
i) Tập
trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực
cấm;
k) Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn
với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của
pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã
hội;
l) Viết,
phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng
đến uy tín của tổ chức, cá nhân;
m) Tàng trữ, vận chuyển “đèn trời”.
4. Phạt
tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau
đây:
a) Gây
rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ
trợ;
b) Sản
xuất, nhập khẩu, buôn bán "đèn trời".”
Như vậy, hành vi của T, Q và N đã vi phạm điểm a, khoản
2, điều 5 nói trên. Cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành phạt mỗi thanh niên
mức phạt từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng vì hành vi vi phạm quy định về trật
tự công cộng.
Tình huống 10: Nhà trung cư cao tầng M5 nằm
trong khu đô thị mới Linh Trung, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Nhà M5 có 200 căn hộ
được bố trí theo thiết kế 10 căn hộ/sàn. Ngày 30/6/2015, anh Nguyễn Văn T là
chủ căn hộ mới mua tại nhà M5 tiến hành sửa chữa căn hộ của mình. Nội dung sửa
chữa bao gồm phá 3 bức tường gạch bên trong căn hộ. Do muốn đẩy nhanh tiến độ,
anh T đã giục thợ của mình dùng khoan phá bê tông để phá 3 bức tường xong trong
ngày 30/6/2015. Công việc phá tường dự kiến tới tận 24h đêm mới kết thúc. Quá
trình khoan phá tường gây ra tiếng ồn rất lớn khiến các hộ dân xung quan đều
hết sức khó chịu. Một trong những người hàng xóm của anh T đã điện thoại phản
ánh với cơ quan có thẩm quyền ở phường. 23h cùng ngày, khi quá trình khoan phá
vẫn đang diễn ra, đại diện cơ quan có thẩm quyền có mặt và lập biên bản nhà anh
T. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý hành vi vi phạm của
anh T như thế nào?
Điều 6, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội,
phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và
chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình quy định:
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Gây tiếng động lớn, làm ồn ào, huyên
náo tại khu dân cư, nơi công cộng trong khoảng thời gian từ 22 giờ ngày hôm
trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau;
b) Không thực hiện các quy định về giữ
yên tĩnh của bệnh viện, nhà điều dưỡng, trường học hoặc ở những nơi khác có quy
định phải giữ yên tĩnh chung;
c) Bán hàng ăn, uống, hàng giải khát quá
giờ quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000
đồng đối với hành vi: Dùng loa phóng thanh, chiêng, trống, còi, kèn hoặc các
phương tiện khác để cổ động ở nơi công cộng mà không được phép của các cơ quan
có thẩm quyền.”
Như vậy, anh Nguyễn Văn T đã vi phạm quy định tại điểm a,
khoản 1, điều 6 nói trên, cụ thể là đã gây tiếng ồn lớn trong khu dân cư vào
sau 22h đêm. Cơ quan có thẩm quyền có thể xử phạt anh T từ 100.00 đồng đến
300.000 đồng.