1. Giải đáp 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải
đáp một số vấn đề nghiệp vụ
Điểm c khoản 2 Điều 61 Luật tố tụng hành
chính quy định:
“2. Những người sau đây được làm người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu cầu của đương sự và được Tòa
án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
...c) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, có kiến thức pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã
được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính, không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát,
Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an”.
Theo quy định nêu trên thì Giám đốc, Phó Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp được tham
gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh.
Điều 84 Luật tố tụng hành chính về xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ quy định: “...5. Trong thời hạn 03 ngày làm
việc kể từ ngày thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các
đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình”. Theo quy định này
thì: trong 03 ngày làm việc, kể từ ngày mà Tòa án đã thu thập được tài liệu,
chứng cứ do đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 55,
56, 57, 58 và khoản 2 Điều 118 Luật tố tụng hành chính, Tòa án phải thông báo
cho các đương sự khác biết về việc có đơn khởi kiện vụ án hành chính liên quan
đến mình để họ thu thập chứng cứ và thực hiện quyền, nghĩa vụ giao nộp chứng cứ
theo quy định tại khoản 1 Điều 83, khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành chính.
(Cần lưu ý: Trường hợp người khởi kiện đã nộp
tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và khẳng định không bổ sung thêm tài
liệu, chứng cứ, thì nội dung thông báo về các tài liệu, chứng cứ liên quan đến
quyết định, hành vi hành chính bị khởi kiện có thể được Tòa án thông báo cùng
với nội dung thông báo về việc thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 126 Luật tố
tụng hành chính).
Điều 98 Luật tố tụng hành chính về quyền tiếp
cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ quy định: “...3. Trong thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án
phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền, tiếp cận tài liệu,
chứng cứ quy định tại khoản 1 Điều 98”. Đây là giai đoạn Tòa án đã thụ lý
vụ án hành chính và quy định thời hạn để Tòa án phải thông báo cho các bên
đương sự biết về việc các bên đương sự đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa
án theo quy định tại khoản 1 Điều 83 và khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành
chính đến Tòa án chỉ nhằm mục đích cho các bên biết tài liệu, chứng cứ mà họ
đưa ra để thực hiện quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ. (Ví dụ: sau
khi Tòa án đã nhận được các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự giao nộp cho
Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 83 Luật tố tụng hành chính thì sau 05
ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án nhận được hoặc hết thời hạn giao nộp tài liệu,
chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Luật tố tụng hành chính, Tòa án
phải thông báo cho các bên đương sự biết để các bên đương sự thực hiện quyền
tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ như: sao chụp, đọc... các tài liệu đó).
Theo các quy định nêu trên thì hai thời hạn
này được áp dụng đối với hai nội dung khác nhau nên không mâu thuẫn với nhau.
Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3
Luật tố tụng hành chính thì hành vi cưỡng chế thu hồi tài sản có thể là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính; nếu đương sự cho rằng hành vi cưỡng chế đó
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể khởi kiện ra Tòa án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật tố
tụng hành chính thì Chánh án Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn: “Tổ chức
công tác giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án”, “Ra quyết
định và tiến hành hoạt động tố tụng hành chính”.
Theo quy định tại Điều 38 Luật tố tụng hành
chính thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không có thẩm quyền ra
quyết định nhập hoặc tách vụ án.
Như vậy, Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án
có thẩm quyền ra quyết định nhập hoặc tách vụ án.
Theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2
Điều 193 Luật tố tụng hành chính thì:
“1. Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét
tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính... quyết định giải
quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2. Hội đồng xét xử có quyển quyết định:
...b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc quyết định hành chính trái pháp luật và
quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có)...”.
Như vậy, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét
xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp đối với tất cả các quyết định hành chính
khác có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc vào
việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
Quy định tại khoản 1 Điều 235 Luật tố tụng
hành chính hiện hành là quy định mới được bổ sung (Luật tố tụng hành chính năm
2011 không có quy định này) nên nội dung này cũng chưa được Pháp lệnh án phí,
lệ phí Tòa án quy định. Tuy nhiên, khi xem xét trường hợp này Tòa án cấp phúc
thẩm có thể áp dụng các quy định về xử lý tiền án phí trong thủ tục xét xử sơ
thẩm đối với trường hợp người bị kiện đồng ý hủy bỏ quyết định hành chính bị
kiện tại phiên tòa sơ thẩm; cụ thể như sau:
- Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người
khởi kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm quyết định sửa án
sơ thẩm, buộc người bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm và trả lại tiền án phí sơ
thẩm cho người khởi kiện;
- Trường hợp bản án sơ thẩm quyết định người
bị kiện phải chịu án phí sơ thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm tuyên giữ nguyên về
phần án phí sơ thẩm theo bản án sơ thẩm.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 59 Luật
đất đai thì Ủy ban nhân dân huyện có thẩm quyền: “Giao đất, cho thuê
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường
hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5
héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trước khi quyết định”.
Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 và khoản 2
Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29-7-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành
chính năm 2011 thì để xác định quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện là đối tượng khởi kiện thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm
quyền.
Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc ủy quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó
là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà
không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó.
Theo hướng dẫn tại Điều 4 và khoản 4 Điều 5
Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28-8-2014 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì Phòng Tài nguyên và Môi trường
là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng tham
mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước như thẩm định hồ sơ về
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền
sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho các đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân
cấp huyện.
Theo quy định và hướng dẫn nêu trên, Phòng
Tài nguyên và Môi trường là đơn vị thực hiện thẩm tra hồ sơ theo chức năng,
nhiệm vụ được giao giúp Ủy ban nhân dân huyện xem xét, quyết định việc công dân
xin chuyển mục đích sử dụng đất. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án xác định
người bị kiện là Ủy ban nhân dân cấp
huyện.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 166
Luật tố tụng hành chính thì trong biên bản phiên tòa phải ghi đầy đủ mọi diễn
biến tại phiên tòa từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Khoản 7 Điều 153 Luật tố tụng hành chính quy
định: “Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại
phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được Chủ tọa phiên
tòa đồng ý cho rời khỏi phòng xử án nếu có lý do chính đáng”.
Như vậy, trường hợp đương sự vắng mặt khi Hội
đồng xét xử tuyên án, thì việc vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do
chính đáng đều phải được ghi vào bản án và biên bản phiên tòa.
Trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải
căn cứ vào quy định tại Điều 217 Luật tố tụng hành chính để thụ lý vụ án theo
thủ tục phúc thẩm. Trong quá trình giải quyết, Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào
điểm b khoản 1 Điều 229, điểm a khoản 4 Điều 207 Luật tố tụng hành chính trả
lại đơn kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Trong quyết định đình chỉ
xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải quyết định trả lại tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm cho người đã gửi đơn kháng cáo.
Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về hình
sự; tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; dân sự; tố tụng dân sự và thi hành
án dân sự; tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá
trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 02/GĐ-TANDTC |
Hà Nội,
ngày 19
tháng 09 năm
2018 |
GIẢI ĐÁP
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Kính
gửi: |
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự; |
Qua
thực tiễn công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các
Tòa án về một số vướng mắc trong giải quyết các vụ án hành chính. Để bảo đảm áp
dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1.
Trong vụ án hành chính, cán bộ, thanh
tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường có được làm
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
không?
Theo
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 của Luật Thanh tra thì
Thanh tra sở là một trong những cơ quan thanh tra nhà nước.
Theo
quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì
“cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi
hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an” không được làm
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự trong vụ án hành chính.
Do đó,
theo các quy định nêu trên thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh
tra Sở Tài nguyên và Môi trường không
được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh trong vụ án hành chính.
2.
Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng
đăng ký đất đai lập có phải là
quyết định hành chính không? Có được coi là đối tượng khởi kiện
vụ án hành chính không?
Theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành
chính thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
được hiểu như sau:
“1. Quyết định
hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được
giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó
ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
2.
Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà
quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoặc
có nội
dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.”
Theo
quy định tại khoản 4 Điều 10 và khoản 1 Điều 12 của Thông tư
liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22-6-2016 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì Văn phòng đăng ký đất đai có
trách nhiệm lập Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất
đai theo Mẫu số
01/LCHS Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này để chuyển cho cơ quan
thuế ra thông báo nộp tiền sử dụng đất. Cơ quan thuế có trách nhiệm tiếp nhận,
kiểm tra hồ sơ. Trường hợp phát hiện hồ sơ có sai sót hoặc thiếu căn cứ để xác
định nghĩa vụ tài chính thì cơ quan thuế đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai xác
định hoặc bổ sung thông tin.
Căn cứ
vào các quy định nêu trên thì Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài
chính về đất đai là văn bản hành chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của
người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nên không thuộc đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính.
3. Ban
đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã
thụ lý vụ án
hành chính; sau đó, người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất
đai có liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện
ban đầu. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào?
Trong
trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành
chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện vụ án
hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về đất đai thì
Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành
chính để đình
chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết
bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trường hợp đương sự không rút đơn khởi
kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 141 của Luật Tố
tụng hành chính tạm đình chỉ
giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp
xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến nhau và có thể giải quyết trong cùng
một vụ án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều
34 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 34 của Bộ luật Tố
tụng dân sự để giải
quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án theo thủ tục chung
do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
4.
Trường hợp đơn khởi
kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi
kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Trường
hợp này thụ lý vụ án dân sự hay vụ án hành chính để xem xét giải quyết?
Trường
hợp người khởi kiện chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa
án phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện” theo
quy định tại Điều 8 của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì
Tòa án phải xem xét thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng
hành chính.
5.
Trong quá trình xét xử vụ án hành chính, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện
bất khả kháng, Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có
Kiểm sát
viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử hay tạm ngừng phiên
tòa?
Theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành
chính thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên
tòa khi có căn cứ: "Do
tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác
mà người tiến hành tố tụng không thể
tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành
tố tụng”.
Như
vậy, trong quá trình xét xử, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành
phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử căn cứ quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính để
xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa.
6.
Trong vụ án hành chính, người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện, nên người đại diện theo pháp luật của người bị kiện là Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể
bị kiện thành một chủ thể được không?
Theo
quy định của Luật Tố tụng hành chính thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng
khác nhau và có trách nhiệm riêng đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình. Do đó, trường hợp này không thể xác định chung tư cách tham gia
tố tụng, mà vẫn phải xác định riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là
của Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện.
7.
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời do Hội đồng xét xử ban hành trong tố tụng hành chính như thế nào?
Theo
quy định tại Điều 77 của Luật Tố tụng hành chính về giải
quyết khiếu nại, kiến nghị việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì: “3. Việc
giải quyết khiếu nại, kiến nghị tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết
định cuối cùng”.
Theo
quy định nêu trên thì trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử sơ thẩm ban hành tại phiên tòa sơ
thẩm thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Trường
hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời sau
khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng xét xử là
quyết định cuối cùng.
8.
Người khởi kiện yêu cầu hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh. Khi
họ khởi kiện thì có phải thông báo quyền của họ được trợ giúp pháp lý như
thương binh không? Có được miễn tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật về
án phí, lệ phí Tòa án?
Theo
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh Ưu đãi người
có công với cách mạng thì thương binh là người có công với cách mạng.
Theo
quy định tại Điều 17 của Luật Trợ giúp pháp lý, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì người có công với cách mạng thuộc
trường hợp được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng và được miễn nộp tiền tạm
ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án.
Tuy
nhiên, tại thời điểm họ nộp đơn khởi kiện thì Quyết định thu hồi Giấy chứng
nhận thương binh đang có hiệu lực, nên người khởi kiện không được quyền trợ
giúp pháp lý và miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Trong
trường hợp Tòa án hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh thì việc
xử lý tiền tạm ứng án phí được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định hoàn trả
lại cho người khởi kiện trong bản án.
9. Một
người khởi kiện nhiều quyết định hành chính trong cùng một vụ án thì tính án
phí sơ thẩm như
thế nào?
Pháp
luật về án phí, lệ phí Tòa án chỉ quy định án phí hành chính sơ thẩm, án phí
hành Chính phúc thẩm
mà không quy định án phí theo từng yêu cầu khởi kiện. Do đó, nếu người khởi
kiện yêu cầu hủy nhiều quyết định hành chính có liên quan đến nhau thì Tòa án
giải quyết các yêu cầu này trong cùng một vụ án. Trong trường hợp này, án phí
hành chính sơ thẩm, án phí hành chính
phúc thẩm
được xác định là 300.000 đồng. Nếu người khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định
hành chính độc lập với nhau thì Tòa án xem xét, thụ lý giải quyết bằng các vụ
án hành chính khác nhau. Việc tính án phí hành chính thực hiện theo quy định
chung.
10.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án trước
khi mở phiên tòa thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm.
Vậy, tính án phí trong trường hợp này cụ thể như thế nào?
Theo
quy định tại khoản 4 Điều 32 của Nghị quyết số 326 thì: “Trước
khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành đối thoại nếu các bên đương sự đối thoại
thành về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính
sơ thẩm”.
Theo
quy định tại mục III Phần A
của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326 thì án
phí hành chính sơ thẩm
là 300.000 đồng.
Như
vậy, theo các quy định này thì đối với trường hợp đối thoại thành, đình chỉ vụ
án thì các bên phải chịu 150.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
11.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp
đất đai, nên các bên tranh chấp không thực hiện được việc khởi kiện tại Tòa
án. Vậy, hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã có phải là đối tượng khởi kiện trong
vụ án hành chính không?
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp
đất đai tại địa phương mình. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân cấp xã được
thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp đất đai.
Theo
quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 của Luật Tố tụng hành
chính thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện
là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo
các quy định nêu trên thì hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh
chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính.
12.
Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án hành chính được thực hiện như thế nào?
Trong
vụ án hành chính, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản thì việc kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện
tương tự như việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người khởi kiện, người bị
kiện theo quy định tại Điều 59 của Luật Tố tụng hành chính.
13.
Trong vụ án hành chính, nếu một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành
đối
thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại hay tiếp tục các thủ tục khác để rút
ngắn thời
gian giải quyết vụ án?
Trong
vụ án hành chính mà chỉ một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn
các đương
sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối
thoại theo thủ tục chung. Trường hợp, đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai hoặc không thể
tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không tiến
hành đối thoại được; trường hợp này Biên bản đối thoại được lập theo quy định
tại khoản 1 Điều 139 của Luật Tố tụng hành chính.
14.
Đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016,
nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử, có phải quay trở lại thủ tục mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định
của Luật Tố tụng hành chính năm 2015?
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày
25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì đối với
những vụ án hành chính đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, nhưng kể từ
ngày 01-7-2016 mới xét xử theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng quy định của Luật này để giải quyết.
Như vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày
01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử thì Tòa án vẫn phải tổ chức
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
15.
Trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, người khởi kiện rút một
phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu
cầu độc lập thì Tòa án có phải ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu
cầu đã rút không?
Trường
hợp này, Tòa án không ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút
mà Hội đồng xét xử nhận định về việc người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi
kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập và quyết
định đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện, đình chỉ việc giải quyết đối với yêu
cầu độc lập đó trong bản án.
Trên
đây là giải đáp một số vướng mắc về tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên
cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
|
CHÁNH ÁN |
Công
văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 về thông báo kết quả giải đáp trực
tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính
1. Trong vụ án hành chính, một thành viên hộ
gia đình khởi kiện quyết định hành chính thu hồi đất của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với hộ gia đình thì Tòa án có phải đưa các thành viên khác của
hộ gia đình tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
hay không?
Theo
quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ
chức, cá nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết
vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc
đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc được Tòa án đưa
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan”;
Theo
quy định tại khoản 29 Điều 3 của Luật Đất đai thì: “Hộ
gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân,
huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời
điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận
chuyển quyền sử dụng đất”.
Do đó, khi xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình
thì Tòa án phải đưa các thành viên còn lại của hộ gia đình tại thời điểm được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển
quyền sử dụng đất tham gia tố tụng với tư cách người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Theo
quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá
nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên
họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Tòa án nhân dân chấp nhận hoặc
được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan”;
Theo
quy định tại khoản 2 Điều 21 của Luật Khiếu nại thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện; theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 203 của
Luật Đất đai thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng
hành chính thì:
“1. Hội đồng xét xử xem xét tính
hợp pháp của quyết định hành chính... quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan.
2. Hội đồng xét xử có quyền quyết định:
...b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính trái pháp luật và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan
(nếu có)... ”
Theo các quy định nêu trên thì khi xem xét
yêu cầu khởi kiện mà Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành, thì
phải đưa Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện tham gia
tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Đối
với trường hợp này, các văn bản hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành (công văn, báo cáo...) không phải là
quyết định hành chính có liên quan nên Tòa án không đưa Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp huyện tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính, người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc hủy
bỏ quyết định hành chính theo quy định tại khoản 4 Điều 57
của Luật Tố tụng hành chính.
Trường
hợp tại phiên tòa sơ thẩm, người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế,
hủy bỏ quyết định bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi
kiện thì Tòa án căn cứ vào Điều 187 của Luật Tố tụng hành
chính để tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng
phiên tòa mà người bị kiện ban hành quyết định hành chính mới, người khởi kiện
đồng ý rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án.
Trường
hợp tại phiên tòa sơ thẩm, người bị kiện xuất trình quyết định hành chính mới
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện mà người khởi kiện
đồng ý rút đơn khởi kiện thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nếu
người khởi kiện không rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải tiếp tục xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện và quyết định hành chính mới. Trong
trường hợp này, Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 193 của
Luật Tố tụng hành chính để tùy vào từng trường hợp cụ thể mà bác yêu
cầu khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật hoặc chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện nếu quyết định hành chính bị khởi kiện, quyết
định hành chính mới trái pháp luật. Trường hợp quyết định hành chính mới có
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thì phải tạm
ngừng phiên tòa để đưa cơ quan, tổ chức, cá nhân đó tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và giải quyết vụ án theo thủ tục
chung.
Theo
quy định của Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính thì
khi giải quyết vụ án hành chính, Hội đồng xét xử có thẩm quyền xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính và quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan.
Theo
quy định tại khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính thì
Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Trong trường hợp này, Tòa án phải xem xét
tính hợp pháp của quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp xã và quyết
định giải quyết khiếu nại Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Trong điều kiện
hiện nay, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đang bị áp lực lớn về công việc, để tránh
việc chuyên quá nhiều vụ án hành chính lên Tòa án nhân dân cấp tỉnh và phù hợp
với các quy định của pháp luật thì trong trường hợp này Tòa án nhân dân cấp
huyện vẫn thụ lý, xem xét giải quyết vụ án hành chính. Trường hợp có căn cứ xác
định quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
trái pháp luật và phải hủy quyết định hành chính này mới bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý, giải quyết
vụ án đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết
khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đúng pháp luật, không xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và không phải hủy quyết định hành
chính này thì Tòa án nhân dân cấp huyện đang thụ lý, xem xét tiếp tục giải
quyết vụ án.
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 22 và khoản 3 Điều 31 của Luật
Đất đai thì việc khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính thuộc nội dung
quản lý nhà nước về đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định.
Theo
quy định tại khoản 6 Điều 22 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT quy
định về bản đồ địa chính ngày 19-05-2014 và điểm e khoản 5
Điều 2 của Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28-8-2014
hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tài nguyên
và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tài nguyên và Môi trường
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm
trong việc lập, chỉnh lý và ký duyệt nghiệm thu bản đồ địa chính.
Như
vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên thì bản đồ địa chính cấp xã được xác định
là quyết định hành chính, nếu việc chỉnh lý bản đồ địa chính cấp xã thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng
hành chính thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Việc
lập, chỉnh lý, ký duyệt bản đồ địa chính do Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc do
cơ quan, tổ chức khác thực hiện thì người bị kiện được xác định là cơ quan, tổ
chức đã thực hiện việc lập, chỉnh lý, ký duyệt bản đồ địa chính mà người khởi
kiện cho rằng việc chỉnh lý đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ
theo quy định tại khoản 9 Điều 3 của Luật Tố tụng hành
chính.
Trên đây là kết quả giải đáp trực tuyến một
số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao
thông báo để các Tòa án nghiên cứu tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc
thuộc thẩm quyền.
Công
văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số
vướng mắc trong xét xử.
- Trường hợp khi phát hiện hành vi có dấu
hiệu vi phạm hành chính, người có thẩm quyền mới chỉ lập biên bản để ghi nhận
vụ việc (như biên bản kiểm tra, biên bản làm việc...); sau đó, tiến hành xác
minh làm rõ tình tiết vụ việc vi phạm hành chính. Sau khi
có kết quả xác minh, người có thẩm quyền mới lập biên bản vi phạm hành chính
thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ ngày lập
biên bản vi phạm hành chính.
-
Trường hợp việc xác minh được thực hiện sau khi lập biên bản vi phạm hành chính
làm cơ sở để người có thẩm quyền xem xét, ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm
hành chính. Theo đó, người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình
tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật Xử lý
vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể
từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Trường
hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường
hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật Xử lý
vi phạm hành chính mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ
thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực
tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời
hạn gia hạn không được quá 30 ngày.
-
Đối với trường hợp hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính do cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự chuyển đến mà người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
phải xác minh thêm tình tiết làm căn cứ ra quyết định xử lý vi phạm hành chính
thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tối đa không quá 45 ngày
kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính theo quy định
tại khoản 3 Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật
Xử lý vi phạm hành chính không có quy định về biên bản vi phạm hành chính bổ
sung. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định số
81/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính quy
định: “3. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập biên bản và ra
quyết định xử phạt một lần...”. Do đó, khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì
người có thẩm quyền chỉ căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính đã được lập.
Đối với trường hợp sau khi lập biên bản vi
phạm hành chính lại phát hiện thêm hành vi vi phạm hành chính khác thuộc phạm
vi quản lý của mình, người có thẩm quyền đã tiếp tục lập biên bản đối với hành
vi vi phạm hành chính này thì được căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính lập
sau để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Theo quy định tại khoản 1 Điều 122 của
Luật Tố tụng hành chính thì trường hợp đơn
khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này
thì Thẩm phán yêu cầu đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Vậy trường hợp
đương sự đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng không nộp các tài liệu, chứng
cứ để chứng minh quyền và lợi ích bị xâm phạm thì Tòa án có trả lại đơn khởi
kiện theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 123 của
Luật Tố tụng hành chính không?
Theo
quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành
chính thì: “Kèm theo đơn khởi kiện
phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi
kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Các tài liệu, chứng cứ khác,
người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung
theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ
án”.
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành
chính thì Thẩm phán chỉ được trả lại đơn
khởi kiện trong những trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm h khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính (gồm: a) Người khởi kiện không có
quyền khởi kiện; b) Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành
chính đầy đủ; c) Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng
người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án
khi còn thiếu một trong các điều kiện đó; d)Sự việc đã được giải quyết bằng bản
án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; đ) Sự việc không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án; e) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết
vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 33
của Luật này; g) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà
không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này;
h) Hết thời hạn được thông báo
quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện
được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không phải nộp
tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng). Như vậy, theo quy định tại khoản
1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính thì không có quy định về trường hợp trả lại
đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không gửi kèm theo đơn khởi
kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.
Đối
với trường hợp người khởi kiện không nộp hoặc nộp không đầy đủ kèm theo đơn
khởi kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm được xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành
chính. Thẩm phán không được căn cứ quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính để trả lại đơn khởi kiện. Bởi vì, điểm g
khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính quy định về trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện, nếu: “Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại
khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người
khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật này”.
Trường
hợp người khởi kiện không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm kèm theo đơn khởi kiện, thì Tòa án vẫn phải xem
xét, thụ lý vụ án theo quy định. Trong quá trình tố tụng, trên cơ sở yêu cầu
của người khởi kiện thì Tòa án yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý,
lưu giữ cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản
3 Điều 93 của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp không có tài liệu, chứng cứ để
chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm thì Tòa án
bác yêu cầu khởi kiện.
4. Điều 130 của Luật Tố
tụng hành chính chỉ quy định thời hạn chuẩn bị
xét xử đối với các quyết định hành chính thuộc trường hợp quy định tại điểm a,
b khoản 2 Điều 116 của Luật này mà không quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối
với các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 của Luật này. Vậy trong trường
hợp khiếu kiện quyết định hành chính thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án áp dụng thời hạn xét xử như thế nào?
Theo
quy định tại Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án hành
chính, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ
án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
“1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường
hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này.
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này....”.
Theo
quy định tại điểm a, b khoản 2 và điểm a, b khoản 3
Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính về thời hiệu khởi kiện thì:
“2. Thời hiệu khởi kiện đối
với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc;
b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng
quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại
lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết
khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn
bản trả lời cho người khiếu nại”.
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật Tố tụng hành
chính và Điều 103 của Luật Cạnh tranh thì trong lĩnh vực cạnh tranh chỉ có quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mới thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Tố tụng hành
chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với
khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Do đó, đối với các quyết định giải
quyết khiếu nại còn lại thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được nêu
tại khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 130 của Luật Tố tụng hành
chính là 04 tháng.
5. Điều 203 của Luật
Đất đai quy định: “3. Trường hợp đương sự lựa
chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải
quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải
quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi
kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh
chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy
định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Vậy trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền khởi kiện tại Tòa án hay không?
Theo
quy định tại Điều 7 của Luật Khiếu nại thì:
“1....Trường
hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai
hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
3... Trường hợp người khiếu nại không đồng ý
với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà
khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính
tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 (về khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) của Luật Tố tụng hành chính thì:
“1.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành
vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành chính
thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao
theo quy định của pháp luật;
b) Quyết định, hành vi của Tòa
án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt
động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.”
Như
vậy, theo quy định của Luật Khiếu nại và Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền
giải quyết của Tòa án thì không loại trừ quyết định giải quyết khiếu nại lần 2
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong lĩnh vực đất đai. Do đó, nếu các quyết định này thỏa mãn quy định
tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính.
6. Khi làm thủ tục đăng ký người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đối với Luật sư và công dân Việt Nam có
đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều
61 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án phải
yêu cầu những người này xuất trình những giấy tờ gì?
Đối
với Luật sư, khi làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, Tòa án yêu cầu Luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu Luật sư
của khách hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Luật sư.
Đối
với trường hợp công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án yêu cầu người đề nghị xuất trình
giấy tờ, tài liệu theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 61 của Luật Tố tụng
hành chính.
Trong
trường hợp này, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 311 của Luật Tố tụng
hành chính thì người phải thi hành án có thời hạn tự
nguyện thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa
án; quá thời hạn này mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì
người được thi hành án (cơ quan hành chính) có quyền gửi đơn đến Tòa án đã xét
xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy
định tại khoản 1 Điều 312 của Luật Tố tụng hành chính; sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án thì cơ quan hành chính có thẩm
quyền mới được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành
chính theo quy định của pháp luật.
Về vấn đề này,
tại Mục 7 của Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 về một
số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, Tòa án
nhân dân tối cao đã hướng dẫn trường hợp người khởi kiện vừa khởi kiện quyết
định hành chính, vừa khởi kiện hành vi không giải quyết khiếu nại đối với quyết
định hành chính đó, thì Tòa án cần giải thích cho người khởi kiện lựa chọn một
trong hai yêu cầu nêu trên. Trường hợp người khởi kiện lựa chọn khởi
kiện quyết định hành chính hoặc lựa chọn khởi kiện hành vi không giải quyết
khiếu nại thì Tòa án xem xét, thụ lý vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện
của đương sự. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong trường hợp này được xác
định theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 của Luật Tố tụng hành
chính. Trường hợp người khởi kiện vẫn đề nghị Tòa
án giải quyết đồng thời cả hai yêu cầu thì Tòa án chỉ thụ lý,
xem xét giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện quyết định hành chính.
Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh
chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì người khởi kiện thay
đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào?
Tại
mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 giải đáp một số vấn đề
về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính nếu thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm
2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Do đó, trong trường hợp này, nếu người khởi kiện chỉ khởi kiện yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án vẫn xem
xét thụ lý giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối
với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh
chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, người khởi kiện thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án tuyên hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án đang xem xét, giải quyết ra quyết
định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ
thụ lý theo quy định tại khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quyết định này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 191 của Luật Tố tụng hành
chính thì đối với vụ án hành chính, Hội đồng
xét xử chỉ xem xét, quyết định về các vấn đề sau đây:
“a) Tính
hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính
hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
b) Tính
hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc
việc thực hiện hành vi hành chính;
c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định
hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;
d) Mối liên hệ giữa quyết định hành chính,
hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những
người có liên quan;
đ) Tính
hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính
có liên quan (nếu có);
e) Vấn
đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có)”.
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp trên cơ sở hợp đồng về quyền sử dụng đất thì Hội đồng xét xử xem xét,
đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng về quyền sử dụng đất để làm cơ sở xem
xét, đánh giá về tính hợp pháp và có căn cứ của quyết định hành chính là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đánh giá, nhận định này, Hội đồng xét
xử quyết định bác yêu cầu khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật, hoặc chấp
nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó trái pháp luật.
Trong
trường hợp này, người tham gia ký kết hợp đồng về quyền sử dụng đất tham gia tố
tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy
định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính.
Công văn 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 về
thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử
1. Việc chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp xã có thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Theo
quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 2
và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16-02-2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thì chứng thực là
việc Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận cho các yêu cầu, giao dịch dân sự của
người có yêu cầu chứng thực, qua đó người
thực hiện chứng thực phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của
bản sao đúng với bản chính, về tính xác thực chữ ký của người yêu cầu chứng
thực trong giấy tờ, văn bản, về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao
dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của
các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, về nội dung của hợp đồng, giao
dịch. Do
đó, đây là hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nếu
hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
2.
Quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện có phải là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện không?
Theo quy định tại Điều 1 của Luật Đấu thầu thì:
Luật này quy định quản lý nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên
quan và các hoạt động đấu thầu, bao gồm: lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư
vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa, xây lắp...; lựa chọn nhà thầu thực hiện cung
cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, hàng hóa trên lãnh thổ Việt Nam ...;
lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư
(PPP), dự án đầu tư có sử dụng đất; lựa chọn nhà thầu trong lĩnh vực dầu khí,
trừ việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ dầu khí liên quan trực tiếp đến
hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí theo quy định
của pháp luật về dầu khí.
Theo quy định từ Điều 100 đến Điều
103 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26-6-2014 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu thì Bộ trưởng; Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và Thủ trưởng các cơ quan khác ở
địa phương; Hội đồng quản trị, người
đứng đầu doanh nghiệp; Hội đồng quản trị của doanh
nghiệp liên doanh, công ty cổ phần và đại diện hợp pháp của các bên tham gia
hợp đồng hợp tác kinh doanh có
trách nhiệm phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Căn cứ các quy định nêu trên
thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có
thẩm quyền phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu các dự án thuộc phạm vi quy định
tại Điều 1 của Luật Đấu thầu nên quyết định phê
duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện là quyết định hành
chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
3. Trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm, người khởi kiện được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đến Tòa để lấy
lời khai, nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng và không có văn bản
đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trong trường hợp này, Tòa án có được đình chỉ
giải quyết vụ án không?
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính thì
Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong
trường hợp:
“…đ) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp
lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt
hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.”
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 135 của Luật Tố tụng hành chính thì
tại phiên đối thoại vụ án hành chính nếu người khởi kiện, người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà
vẫn cố tình vắng mặt là thuộc trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối
thoại được.
Như vậy, theo các quy
định này thì trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ
án hành chính mà người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa
để lấy lời khai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án cấp
sơ thẩm có
quyền đình chỉ giải quyết vụ án, trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng
mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Riêng đối
với trường hợp người khởi kiện được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên đối thoại mà vẫn cố tình vắng
mặt thì thuộc trường hợp vụ án không tiến hành đối thoại được và Tòa án vẫn
tiến hành các thủ tục để giải quyết vụ án theo quy định.
4. Khi đã hết thời hiệu
khiếu nại thì người khiếu nại mới có đơn khiếu nại quyết định hành chính đến cơ
quan, người có thẩm quyền. Việc khiếu nại quá thời hiệu là không có lý do chính
đáng. Do việc khiếu nại gay gắt, nhiều lần nên cơ quan, người có thẩm quyền đã
ban hành văn bản (Quyết định, Công văn, Thông báo,…) có nội dung cho rằng quyết
định hành chính đã được ban hành theo đúng quy định của pháp luật. Người khiếu
nại không đồng ý nên đã có đơn khởi kiện đối với văn bản này. Vậy có xác định
văn bản hành chính trên là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ
án hành chính không? Nếu xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thì khi
giải quyết vụ án có phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính ban
đầu hay không?
Theo
quy định tại khoản 6 Điều 11 của Luật Khiếu nại thì khiếu nại thuộc
một trong các trường hợp sau đây không được thụ lý giải quyết: “Thời hiệu,
thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng”.
Theo
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày
31-10-2014 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn
tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh thì Đơn khiếu nại đã hết thời hạn, thời hiệu
theo quy định của pháp luật được xếp lưu đơn.
Theo các quy định nêu trên thì
khi khiếu nại đã hết thời hiệu khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền không được thụ
lý mà xếp lưu đơn. Tuy nhiên, trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban
hành văn bản hành chính trả lời cho người khiếu nại xác định quyết định
hành chính đúng pháp luật; văn bản này bị khởi kiện thì tùy từng trường hợp cụ
thể mà Tòa án xem xét văn bản đó có phải là đối tượng khởi kiện của vụ án hành
chính hay không, cụ thể:
+ Trường hợp cơ quan,
người có thẩm quyền ban hành Quyết định để giải quyết khiếu nại thì đây là
quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện; khi giải quyết vụ án hành
chính thì Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của cả quyết định hành chính ban
đầu;
+ Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản bằng
hình thức Công văn, Thông báo,… có nội dung thể hiện diễn biến việc ra quyết
định hành chính, quá trình xác minh khiếu nại, từ đó căn cứ các quy định của
pháp luật để ra kết luận đối với việc khiếu nại thì xác định văn bản hành chính
này là quyết định giải quyết khiếu nại. Văn bản này có nội dung làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên được xác định là đối tượng khởi
kiện vụ án hành chính. Khi giải quyết vụ án thì Tòa án phải xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính ban đầu;
+ Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản bằng
hình thức Công văn, Thông báo,… có nội dung cho rằng việc khiếu nại đã hết thời
hiệu theo quy định của pháp luật thì văn bản hành chính này không phải là quyết
định giải quyết khiếu nại và không thuộc đối
tượng khởi kiện vụ
án hành chính.
5. Theo quy định tại
các khoản 2, 3 Điều 196 của Luật Tố tụng hành chính thì:
“2. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải cấp,
gửi bản án cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp, gửi bản án đã có hiệu lực
pháp luật cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự cùng
cấp, cơ quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện”.
Theo quy định này thì Tòa án 02 lần gửi bản án (01 bản án chưa có
hiệu lực, 01 bản án có hiệu lực pháp luật) cho Viện kiểm sát cùng cấp có đúng
không?
Đây là các quy định khác nhau nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính. Do
đó, các Tòa án phải thực hiện theo đúng quy định này.
Trường hợp này, Tòa án phải
xem xét đánh giá về tính hợp pháp của các quyết định hành chính là giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông A, ông B, ông C. Nếu việc chuyển nhượng đất
giữa ông B với ông C là ngay tình và đúng theo quy định của pháp luật về chuyển
nhượng đất thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông C theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất
đai và khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự.
7. Quyết định hành chính hết
thời hiệu khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại còn thời hiệu khởi kiện,
tuy nhiên người khởi kiện chỉ khởi kiện quyết định hành chính mà không khởi
kiện quyết định giải quyết khiếu nại. Trường hợp này Tòa án vẫn xem xét giải quyết
hay đình chỉ vụ án do hết thời hiệu?
Theo quy định tại Điều 7
của Luật Khiếu nại và khoản 3 Điều của 116 Luật Tố tụng hành
chính thì trường hợp này thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải
quyết khiếu nại, mà không phải tính từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định
hành chính. Do đó, Tòa án vẫn xem xét giải quyết mà không đình chỉ vụ án.
8. Văn bản của Văn phòng
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thông báo ý kiến kết luận của Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp huyện thu hồi đất của hộ gia đình (vì cho
rằng giao đất không đúng đối tượng) bị khởi kiện. Tòa án có xác định văn bản
này là quyết định hành chính bị khởi kiện hay không?
Theo quy định tại khoản 1
và khoản 2 của Điều 66 Luật Đất đai thì việc thu hồi đất của hộ gia đình
thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, mà không phải thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh.
Theo quy định tại khoản 6
Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì: Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan,
tổ chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài
sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chính
sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các đơn
vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức.
Theo các quy định trên thì văn
bản thông báo ý kiến của Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là văn bản mang tính
chất nội bộ của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về việc chỉ đạo, điều hành của cơ
quan, tổ chức, đồng thời văn bản này không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 30 của Luật Tố
tụng hành chính thì quyết định này không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.