18. PT các điều kiện để một người trúng cử ĐBQH theo PL hiện hành.
- ĐBQH là người đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị
bầu cử mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực
hiện quyền lực NN trong QH (Điều 43 – Luật TCQH)
- Điều kiện cần và đủ
để một người trúng cử ĐBQH:
+ Công dân VN đủ 21 tuổi
trở lên.
+ Đủ tiêu chuẩn của ĐBQH:
Điều 3 Luật TCQH
-Được đề cử: Được cơ
quan tổ chức đơn vị giới thiệu ra ứng cử. Trên cơ sở đó MTTQ mới hiệp thương.
Đoàn Chủ tịch UBND MTTQVN hiệp thương những người ở TW.
- Ban Thường trực
UBMTTQ cấp tỉnh giới thiệu người ở địa phương ra ứng cử.
- Tự ứng cử: Phải lấy
ý kiến của cử tri nơi người đó cư trú và của cơ quan, đơn vị công tác (nếu có)
- Khi đưa ra bầu phải
đạt quá số phiếu hợp lệ và nhiều hơn từ trên xuống (đa số tuyệt đối)
- Được UB thẩm tra tư
cách đại biểu, ra Nghị Quyết công nhận đủ tư cách ĐBQH: Tại kỳ họp thứ nhất của
QH, QH đã bầu ra UB thẩm tra tư cách ĐBQH. Căn cứ vào kết quả điều tra của UB
này, QH phê chuẩn ĐBQH.
24. PT hoạt động chất vấn của ĐBQH theo PL hiện hành. Đánh giá hoạt động
chất vấn của ĐBQH trong thực tiễn VN hiện nay.
- ĐBQH: Khoản 1 Điều
79 HP 2013
- Chất vấn: Khoản 7 Điều
2 Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND.
* Bản chất, mục đích
và vai trò của hoạt động chất vấn:
- Bản chất, chất vấn
là một hình thức được QH áp dụng để giám sát hoạt động của các cơ quan và các
cá nhân được giao quyền. Khi thực hiện chất vấn, ĐBQH nhân danh cá nhân là đại
diện quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân nêu ra những câu hỏi thuộc về
trách nhiệm của CTN, Chủ tịch QH, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKANDTC đồng thời
yêu cầu họ trả lời về trách nhiệm pháp lý, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
-Mục đích, hoạt động
chất vấn không nhằm thu thập thông tin hay số liệu mà nhằm làm rõ trách nhiệm của
các nhà chức trách. ĐBQH có thể đưa ra chất vấn nhiều lần về một vấn đề cho đến
khi nó được giải quyết mới chấm dứt. Bên cạnh đó, hoạt độn chất vấn còn nhằm
làm mục đích kiểm tra năng lực của các nhà chức trách trong việc nắm bắt và điều
chỉnh lĩnh vực mà họ được giao trách nhiệm quản lí.
- Vai trò, chất vấn
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của QH cũng như tinh thần trách
nhiệm của các CQNN và cá nhân được giao quyền đối với cử tri.
- Đại biểu Quốc hội
có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao . Người
bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều
tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời bằng văn bản.
* Quy
trình chất vấn bao gồm 5 bước như sau:
- Thứ nhất, ĐBQH ghi rõ nội dung chất vấn , người bị chất
vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đên Chủ tịch Quốc hội để chuyển đến người bị
chất vấn. Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội tổng hợp các chất vấn của
ĐBQH để báo cáo UBTVQH.
- Thứ hai,
UBTVQH dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp
và báo cáo QH quyết định.
- Thứ ba, việc trả lời chất vấn tại phiên
họp toàn thể QH được tiến hành theo trình
tự 2 bước sau đây:
+ Một,
người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ các nội dung các vấn đề mà đại biểu
quốc hội đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục.
+ Hai,
đại biểu QH có thể nêu lên câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người
bị chất vấn trả lời
- Thứ tư, sau khi nghe trả lời
chất vấn nếu ĐBQH không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị QH
tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của QH
hoặc kiến nghị QH xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. QH ra nghị
quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn nếu xét
thấy cần thiết.
- Thứ năm,
người đã trả lời chất vấn tại kỳ họp QH, tại phiên họp của UBTVQH hoặc đã trả
lời chất vấn của ĐBQH bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các ĐBQH bằng văn
bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại kỳ họp tiếp
theo.
* Đánh giá hoạt động
chất vấn của ĐBQH trong thực tiễn VN hiện nay:
- Hoạt động chất
vấn trong thời gian qua đã có nhiều đổi mới, thể hiện trách nhiệm của đại biểu
Quốc hội và người trả lời chất vấn góp phần xây dựng tính dân chủ trong hoạt động
của Quốc hội. Trong kỳ họp này đã có nhiều đổi mới cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, thời
gian chất vấn nhiều hơn. Nếu như trước đây đại biểu Quốc hội chỉ có 2,5 ngày để
chất vấn các thành viên Chính phủ thì nay đã được tăng lên là 3 ngày.
+ Thứ hai, các đại
biểu Quốc hội đã có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện chất vấn. Họ đã có sự nghiên
cứu, tìm hiểu, chuẩn bị câu hỏi chất vấn đích đáng đề cập đến nhiều vấn đề nóng
hổi của cuộc sống, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
+ Bên cạnh đó,
năng lực điều hành của chủ tọa phiên họp Quốc hội cũng được đánh giá cao. Dưới
sự điều hành của Quốc hội không khí chất vấn ngày càng dân chủ, thẳng thắn và
hiệu quả hơn.
-Bên cạnh những kết
quả tích cực đã đạt được thì hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội trong thời
gian qua vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:
+ Thứ nhất, hoạt
động chất vấn thường chỉ tập chung ở một số đại biểu trong khi có những đại biểu
rất ít khi thậm chí là chưa bao giờ thực hiện một lần nào quyền chất vấn của
mình.
+ Thứ hai, kỹ
năng đặt câu hỏi của đại biểu Quốc hội tuy đã được nâng lên nhưng vẫn còn nhiều
điểm hạn chế. Như về cách chọn vấn đề chất vấn, vẫn còn những câu hỏi tập trung
vào những vấn đề mang tính địa phương, thiếu tầm khái quát; về cách trình bày nội
dung chất vấn, đặt câu hỏi có hai ý, diễn giải quá dài dòng mà không đi vào trọng
tâm hay đặt câu hỏi đóng.
+ Thứ ba, trong
các phiên chất vấn còn còn diễn ra sự trùng lặp giữa câu hỏi của các ĐBQH. Và về
phía người trả lời chất vấn cũng còn tồn tại nhiều điểm hạn chế. Có những trường
hợp Bộ trưởng trả lời còn dài, chưa đi thẳng vào ngay vấn đề, hoặc nói chưa sát
những vấn đề mà đại biểu muốn tìm hiểu.
-Muốn khắc phục
những hạn chế đã nêu ở trên chúng ta cần phải đưa ra được những giải pháp thích
hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của những phiên họp chất vấn và trả lời chất
vấn:
+ Thứ nhất, sửa đổi,
bổ sung những điều còn bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến
hoạt động chất vấn trong kỳ họp Quốc hội.
+ Thứ hai, cần
nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động bầu cử nhằm lựa chọn những đại biểu
thật sự xứng đáng là đại diện đấu tranh cho lợi ích của nhân dân, vững vàng về
phẩm chất và chuyên môn.
25. UBTVQH có vai trò gì đối với hoạt động của QH
theo PL hiện hành.
- UBTVQH là cơ quan thường trực của QH.
- Thành phần: Chủ
tịch QH, các Phó Chủ tịch QH, các ủy viên.
- Vai trò: (Điều
74 HP 2013)
+ Tổ chức việc
chuẩn bị triệu tập và chủ trì các kì họp QH.
+ Ra pháp lệnh về
những vấn đề được QH giao.
+ Giải thích HP,
luật, pháp lệnh.
+ Giám sát việc
thi hành HP, luật, nghị quyết của QH; pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
+ Giám sát hoạt động
của Chính Phủ, TANDTC, VKSNDTC, Kiểm Toán Nhà nước, các cơ quan do QH thành lập.
+……
26. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban có vai trò gì
đối với hoạt động của QH theo PL hiện hành.
* Hội đồng dân tộc:
- Là cơ quan của
Qh, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Nhiệm kì của Hội đồng
dân tộc theo nhiệm kì của QH.
- HĐ dân tộc có
nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được QH
hoặc UBTVQH giao; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do
luật định.
- HĐ dân tộc có
quyền kiến nghị UBTVQH những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc
thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, các kế hoạch phát triển KT – XH
miền núi và các vùng có dân tộc thiểu số.
- Chủ tịch HĐ dân
tộc được tham dự các phiên họp của UBTVQH.
* Các Ủy ban của QH:
- Do QH bầu ra, để
giúp QH thực hiện được tốt các nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Nghiên cứu, thẩm
tra những vấn đề được QH và UBTVQH giao cho.
+ Đề xuất những
sáng kiến giúp QH và UBTVQH giải quyết tốt các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền
của mình.
-Để thực hiện 2
nhiệm vụ trên, QH lập ra 2 Ủy ban:
a, UB thường trực: là những Ủy ban hoạt động thường xuyên.
-Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu, thẩm
tra luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác.
+ Thẩm tra các
báo cáo được QH và UBTVQH giao cho.
+ Trình QH chương
trình cây dựng luật và pháp lệnh.
+ Thực hiện quyền
giám sát trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định.
+ Kiến nghị những
vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của văn bản.
b, Ủy ban lâm thời: là ủy ban được
QH thành lập ra khi xét thấy cần thiết để thẩm tra hay điều tra về một vấn đề
nhất định (Dự thảo HP, Dự thảo sửa đổi HP), (UB kiểm tra tư cách ĐB). Sau khi
hoàn thành nhiệm vụ, Ủy ban này sẽ giải thể.
31. Pt nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo PL; nghiêm cấm cơ quan, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Khoản 2 Điều 103 HP 2013)
1. Nội dung:
* Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
với các CQNN:
- Tòa án là cơ
quan xét xử thực hiện quyền tư pháp, trước và trong phiên tòa, hội đồng xét xử
làm việc cần có sự độc lập với các CQNN ở nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp
cũng như các cơ quan khác trong hệ thống tư pháp.
- HĐ xét xử không
bị phụ thuộc vào quan điểm của các cơ quan này, không bị nhr hưởng chi phối một
cách tiêu cực để làm sai trái với sự thật khách quan của vụ án.
- Các cơ quan quản
lí theo đó, không được can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm vì
công tác xét xử đã được NN giao cho Tòa án.
- Tòa án không lệ
thuộc hoàn toàn vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Nếu qua phiên
tòa, cảm thấy cần thiết, HĐ xét xử có thể xử lí vụ việc khác với bản kết luận,
cáo trạng của các cơ quan nói trên theo đúng quy định của PL, đảm bảo tính
chính xác, công minh.
- Trong hệ thống Tòa
án từ TW đến địa phương, Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về việc áp dụng
thống nhất PL, đường lối xét xử nhưng không quyết định trước về cách thức, kết
quả xét xử một vụ án cụ thể buộc tòa án cấp dưới làm theo.
=> Thẩm phán, Hội thẩm không bị phụ thuộc
vào kết luận của cơ quan điều tra, không phụ thuộc vào cáo trạng của VKS, không
phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của Tòa án cấp trên. Có như vậy
thì tính độc lập, đúng đắn, hiệu quả mới được đảm bảo trong hoạt động xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa.
* HĐ xét xử độc lập với các tổ chức, cá nhân:
- Trong nhiều vụ án hình sự, số lượng người
tham gia tố tụng lớn với thành phần xã hội phức tạp, HĐ xét xử cần thiết phải có sự độc lập với
các chủ thể này.
- Thẩm phán, Hội
thẩm ND không bị chi phối, can thiệp, điều khiển ý chí từ bất kì ai. Họ phải độc
lập với yêu cầu của bị cáo, bị hại, người bào chữa cũng như thành viên tham gia
tố tụng khác.
- Với tư cách là
những người chuyên môn trình độ cao về PL, được giao phó tín nhiệm với sứ mệnh
bảo vệ công lí lẽ phải, Thẩm phán, Hội thẩm không được vì bất kì mối quan hệ cá
nhân riêng tư nào chi phối đến quá trình giải quyết vụ án. Khi ở vị trí trung
tâm, quan trọng nhất ở phiên toà, HĐ xét xử phải trút bỏ hết những lời nhờ cậy,
sự cả nể thậm chí là dọa dẫm từ các thế lực xung quanh mà chỉ tuân theo diễn biến
của vụ án và quy định của PL để nhanh chóng tìm ra kết luận chính xác, hợp tình
hợp lí.
* Cá nhân các Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập với nhau trong xét xử:
- Các thành viên
trong HĐ xét xử độc lập trong suy nghĩ khi làm việc taajo thể và quyết định
theo đa số. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập từ việc nhận định vụ án,
diễn giải PL, quyết định áp dụng PL và ra bản án.
+ Đối với Hội thẩm,
không một yêu cầu hay đề nghị nào của người khác có thể làm ảnh hưởng đến việc
Hội thẩm áp dụng đúng PL, theo đúng nội dung và yêu cầu của điều luật đối với
các tình tiết cụ thể.
+ Về nguyên tắc,
Thẩm phán không được áp đặt ý kiến đối với Hội thẩm khi xét xử. Chỉ có HĐ xét xử
mới được tham gia nghị án, khi nghị án, Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán là
người biểu quyết sau cùng.
-Các vấn đề của vụ
án đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số:
+ Các cá nhân, cơ
quan, tổ chức không được can thiệp vào các thành viên của HĐ xét xử để buộc họ
phải xét xử theo ý chí của mình.
+ Mọi hành vi can
thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm PL.
*HĐ xét xử “chỉ tuân theo PL” để giải quyết
các vụ án:
- Khi nghiên cứu
hồ sơ, quá trình xét xử tại phiên tòa và khi nghị án, Thẩm phán và Hội thẩm phải
căn cứ vào các quy định của PL để giải quyết vụ án, không được tùy tiện, áp đặt
ý chí chủ quan nào.
- Từng bước của
quá trình xét xử vụ án phải dựa trên bản lề chuẩn duy nhất là quy định PL có
liên quan điều chỉnh trực tiếp vụ việc đó.
2. Ý nghĩa:
- Là căn cứ giúp cho Tòa án làm cho tốt các chức
năng xét xử của mình theo quy định của PL.
- Khẳng định “độc
lập” và “chỉ tuân theo PL” là 2 yếu tố quan trọng, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ
tuân theo PL. Ngược lại, tuân theo PL lại là cơ sở không thể thiếu để đảm bảo
tính độc lập tại phiên tòa.
- Nguyên tắc này
không chỉ xác định độc lập và chỉ tuân theo PL là yếu tố cơ bản điều chỉnh hoạt
động của HĐ xét xử mà còn thể hiện rõ nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc tôn trọng hoạt động này.
32. PT nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc: “Việc
xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ TH xét xử theo thủ tục rút gọn”
(Khoản 1 Điều 103 HP 2013)
33. PT chế độ bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp theo PL
hiện hành.
- Là người có đủ
tiêu chuẩn tại Điều 67 Luật TCTAND và đủ các điều kiện dưới đây:
+ Có thời gian
làm công tác pháp luật từ 5 năm trở lên.
+ Có năng lực xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo
quy định của Luật tố tụng.
+ Đã trúng tuyển
kì thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp.
Người có đủ điều
kiện trên trên có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp, nếu là sỹ
quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ thuộc
Tòa án quân sự.
-Đối tượng được
tham gia thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp là người:
+ Có trình độ cử
nhân luật trở lên.
+ Đã được đào tạo
nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác PL từ 5 năm trở lên.
+ Có năng lực xét
xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo
quy định của Luật Tố tụng.
34. PT tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC
theo PL hiện hành.
* Cơ cấu tổ chức:
(Điều 21 Luật TCTAND)
Bao gồm: 1. HĐ Thẩm
phán TAND
2. Bộ máy giúp việc
3. Cơ sở đào tạo và bồi dưỡng
1. Hội đồng Thẩm phán TAND: (Điều 22)
- Thành viên:
Chánh án, các Phó Chánh án TANDTC là Thẩm phán TANDTC và các Thẩm phán TANDTC.
Tổng số thành viên của HĐ Thẩm phán không dưới 13 người và không quá 17 người.
- Nguyên tắc hoạt
động: HĐ Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể, quyết định của HĐ Thẩm phán phải
được quá ½ tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
+ Viện trưởng
VKSNSTC, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham dự phiên họp của HĐ Thẩm phán
TANDTC khi thảo luận, thông qua Nghị quyết.
+ HĐ Thẩm phán được
quyền ban hành một loại văn bản PL là Nghị quyết.
2. Bộ máy giúp việc: Gồm các Vụ và
các đơn vị tương đương ( Điều 24)
- Cơ cấu giúp việc
của TANDTC do UBTVQH quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC.
3. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng: (Điều 25)
- Nhiệm vụ: đào tạo,
bồi dưỡng Thẩm phán, Hội đồng, các chức danh khác của TAND.
* Nhiệm vụ, quyền
hạn của TANDTC (Điều 20)
35. PT mối quan hệ giữa QH và TANDTC.